PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một trong những cây đại thụ của nền văn học dân tộc. Tuy bóng mát của cây đại thụ ấy không rợp bóng thời gian suốt bao thế kỷ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, nhưng gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn dân Việt.
Là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt đồng thời sống trong giai đoạn đất nước có nhiều biến động, nhưng tài năng thơ văn của Nguyễn Khuyến vẫn tỏa sáng trên thi đàn dân tộc. Đọc thơ Nguyễn Khuyến chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc về một tâm hồn yêu nước sâu nặng nhưng cũng rất thầm kín và chân thành. Đóng góp của ông tuy không rực rỡ như người anh hùng Nguyễn Trãi cũng không vang dội như tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du với tuyệt tác Truyện Kiều nhưng cái tên Nguyễn Khuyến đã gắn liền với “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” như một dấu son trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến không chỉ là bức tranh tuyệt đẹp về làng quê Việt Nam mà đó còn là những cảnh sinh hoạt nông thộn vô cùng chân thực và rất mực gần gũi. Ẩn đằng sau những bức tranh ấy còn là một tâm hồn rất đáng quý của nhà thơ Yên Đổ đối với nhân dân, đất nước. Từ niềm ngưỡng mộ chân thành đối với nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng như sự yêu quý những bức tranh thiên nhiên đậm đà màu sắc dân tộc trong thơ văn ông mà chúng tôi quyết định chọn đề tài tiểu luận “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến”.
Chọn đề tài này chúng tôi mong muốn sẽ mang đến một số đóng góp cho công tác nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến đồng thời phục vụ cho công tác giảng dạy sau này vì Nguyễn Khuyến là tác gia được chọn giới thiệu ở trường phổ thông. Đi sâu vào việc tìm hiểu hình ảnh thiên nhiên trong thơ văn ông, chúng tôi mong muốn có cái nhìn toàn vẹn hơn về tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc miêu tả thiên nhiên đồng thời tìm hiểu những tâm sự mà nhà thơ gửi gắm đằng sau những bức tranh thiên nhiên tràn đầy màu sắc, hình ảnh, âm thanh và dạt dào cảm xúc ấy.
2. Lịch sử vấn đề
Đối với đề tài “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến”, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết của nhiều tác giả đề cập đến với nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
Nhà thơ Xuân Diệu với công trình nghiên cứu “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam” đã gọi Nguyễn Khuyến là: “Nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam”. Ở đây, Xuân Diệu đã có sự cảm nhận rất sâu sắc về ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Ở mỗi bài thơ, Xuân Diệu đã phát hiện ra những cái hay riêng về phương diện nội dung cũng như hình thức. Xuân Diệu cho rằng: “Ba bài thơ thu hay vì Nguyễn Khuyến là một thi sĩ có tài. Nhưng cần một điều kiện nữa: là nhà thơ có tài ấy phải gắn bó, thâm nhập, hòa tâm hồn mình một cách sâu sắc, thấm thía với đất nước Việt Nam. Nhà thơ ấy phải sống như Nguyễn Khuyến” [2, 411]. Không chỉ ca ngợi Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, Xuân Diệu còn cho rằng: “Hai trục xúc cảm rất rõ trong thơ Nguyễn Khuyến, là quê hương làng nước, và đồng bào nhân dân; không phải tâm hồn nhà thơ nào cũng có cả hai trụ cột như thế” [2, 411]. Từ quan niệm của Xuân Diệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến chúng ta có thể thấy Nguyễn Khuyến là một nhà thơ gắn bó mật thiết với quê hương làng cảnh Việt Nam.
“Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ” do Nguyễn Huệ Chi chủ biên là công trình nghiên cứu nhằm “cố gắng ghi nhận những bước đổi thay đáng kể trong quá trình nhận diện lại Nguyễn Khuyến, đánh dấu bằng hội nghị khoa học lớn về Nguyễn Khuyến năm 1985, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh nhà thơ” [1, 24]. Bên cạnh việc đi sâu vào tìm hiểu, tập hợp những tài liệu, những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Huệ Chi còn nhận định về nhà thơ như sau: “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam” [1, 24].
“Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm” do Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (Nxb Giáo dục – 2007) là “sự tập hợp một cách rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa đến nay nhằm đem đến cho bạn đọc một bức tranh toàn cảnh những thành tựu trong việc nghiên cứu một trong những tác gia văn học lớn nhất cuối thế kỷ XIX. Cuốn sách ra đời với mong muốn trở thành cơ sở cho bước tiếp theo trong việc nghiên cứu sự nghiệp của nhà thơ được cả dân tộc yêu mến” [10, 44]. Quyển sách gồm có bốn phần chính: Phần một: Nguyễn Khuyến giữa bước ngoặt lịch sử và sự chuyển mình của văn học dân tộc; Phần hai: Từ những biến đổi trong quan niệm thẩm mĩ đến nhà thơ của con người và làng cảnh Việt Nam; Phần ba: Sự kết hợp phức điệu và tài hoa trong một phong cách thơ; Phần bốn là phần phụ lục. Như vậy tác giả đã tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu và phân chia theo nội dung của mỗi bài để chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng như phong cách nghệ thuật của thơ văn ông. Đồng thời đây cũng là tài liệu tham khảo vô cùng quý báu cho chúng ta tham khảo về nhà thơ Nguyễn Khuyến nói chung và đề tài “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến” nói riêng.
Đặng Thị Hảo với bài viết “Đề tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mĩ” đã khẳng định: “…thơ thiên nhiên chỉ chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn trăm bài thơ ông để lại, nhưng những cống hiến quan trọng của nhà thơ trên phương diện này đã đưa ông lên vị trí những thi sĩ – danh họa tầm cỡ của thơ ca cổ điển Việt Nam. Mảng thơ phong cảnh được viết bằng cả hai thứ văn tự Hán Việt của ông là những sắc thái khác nhau của cùng một phong cách nghệ thuật thống nhất – phong cách Yên Đỗ - góp phần vào việc khẳng định khả năng biểu hiện kỳ diệu của thơ thiên nhiên trước mọi vấn đề của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, tình cảm của con người”[10, 258]. Tác giả bài viết còn chỉ ra sự kế thừa và phát triển của Nguyễn Khuyến khi sáng tác về mảng đề tài thiên nhiên trong thơ ca trung đại Việt Nam. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của nhà thơ như sau: “Nhà thơ tái hiện thiên nhiên bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, bằng khiếu quan sát tinh tường, một trực giác nhạy bén trước vẻ đẹp đa dạng của thiên nhiên, cùng với tình yêu quê hương hồn nhiên mà sâu sắc. Dường như không phút nào nhà thơ ngừng theo dõi và tái hiện những bức tranh thiên nhiên sống động quanh mình. Ông quan sát thiên nhiên, tắm mình trong thế giới muôn ngàn màu sắc đó với niềm thích thú đặc biệt” [10, 260].
Phạm Ngọc Lan với bài viết “Những vần thơ xuân” đã giới thiệu đôi nét về thơ xuân trong văn học trung đại Việt Nam từ đó đi sâu vào tìm hiểu, so sánh tính kế thừa và phát triển trong những bài thơ xuân của Nguyễn Khuyến. Tác giả bài viết này cho rằng: “Rõ ràng với ý nghĩa là ánh phản quang của thời đại và con người tác giả, thơ xuân Nguyễn Khuyến đã không có chất lạc quan của thơ xuân Lý Trần, cũng không có niềm say sưa của những tình cảm yêu đương hay sắc thái cô đơn mà vẫn tự tin của thơ xuân thế kỷ trước. Thơ xuân của ông đã là tiếng nói day dứt về nỗi đau nước mất, mà bản thân mình thì bất lực, vô dụng. Đó cũng là một nét mới mà Nguyễn Khuyến đã đem vào trong nền thơ xuân dân tộc” [10, 267].
Với công trình nghiên cứu “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”, Trần Nho Thìn đã dành một phần để đi sâu vào tìm hiểu “Từ những biến động trong quy tắc phản ánh thực tại của văn chương nhà nho đến bức tranh sinh hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến”. Ở đây, tác giả đã chỉ ra những mâu thuẫn và day dứt trong tâm hồn nhà thơ Nguyễn Khuyến trước thời cuộc của đất nước. Bên cạnh đó, ông đã đi sâu vào tìm hiểu và lý giải về bức tranh thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến như sau: “Với tư thế bình dân, phi nho của mình, Nguyễn Khuyến có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử văn học Nôm phản ánh một cách khá cụ thể, sinh động bức tranh sinh hoạt hằng ngày của làng quê vào thơ ông. Thiên nhiên làng quê không còn là không gian thanh tĩnh, xa lánh vật dục, xa lánh chốn thị thành bon chen danh lợi như không gian thơ nhà nho truyền thống nữa. Không đứng bên ngoài hay bên trên để quan sát nữa, cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã là người có mặt thật sự, hiện diện thường trực trong cuộc sống hằng ngày ấy, tắm mình, đằm mình trong không khí ấy” [11, 568]. Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã từ bỏ tư thế nhà nho của mình để sống hòa mình với khung cảnh làng quê nên ông mới có được những dòng thơ viết về thiên nhiên vô cùng chân thực và hay đến như thế.
Nhìn chung, ở mỗi công trình nghiên cứu đều có những phát hiện, khám phá rất mới mẻ và vô cùng sâu sắc. Đây chính là nguồn tư liệu vô cùng phong phú để chúng ta có thể tìm hiểu về tác gia Nguyễn Khuyến một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất. Các tác giả không chỉ giới thiệu về vị trí của Nguyễn Khuyến trong nền văn học trung đại Việt Nam mà còn đi vào tìm hiểu đề tài thiên nhiên trong thơ văn ông.
Đối với đề tài “Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến” ta thấy các công trình nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến nhưng các tác giả chỉ tập trung đi sâu vào việc khẳng định Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà chưa có cái nhìn thật bao quát về bức tranh phong cảnh và bức tranh tâm trạng trong thơ văn ông. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đã nêu sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quý báu để chúng ta tìm hiểu đề tài một cách hợp lý và thấu đáo.
3. Mục đích, yêu cầu
Ở đề tài này mục đích của người viết là đi vào tìm hiểu thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến trên cơ sở so sánh với thiên nhiên trong thơ văn trung đại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ tìm hiểu thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến ở hai mặt: Bức tranh phong cảnh và bức tranh tâm trạng. Cuối cùng là xem xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ văn ông trên ba bình diện: Bút pháp tả thực, nghệ thuật tạo dựng hình ảnh và chất liệu đời thường.
Từ sự so sánh với thiên nhiên trong thơ văn trung đại Việt Nam với thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến chúng ta sẽ thấy được sự kế thừa và phát triển của Nguyễn Khuyến trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến được thể hiện ở mặt nội dung lẫn mặt hình thức. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến sẽ giúp người đọc vừa phát hiện ra tài năng của Nguyễn Khuyến đồng thời yêu quý và trân trọng tấm lòng yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Yên Đổ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Ở đề tài này, đầu tiên người viết sẽ khái quát thiên nhiên trong thơ văn trung đại qua bốn giai đoạn chính sau đó mới đi sâu vào tìm hiểu thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến. Ở phần nội dung chính này chúng tôi chỉ đi vào phân tích những bài thơ có miêu tả thiên nhiên ở mặt nội dung và hình thức nghệ thuật để làm sáng tỏ cho đề tài đã chọn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giúp cho việc hoàn thành đề tài một cách khoa học và hợp logic chúng tôi sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: tổng hợp, so sánh, liệt kê… và các thao tác chứng minh, phân tích, đánh giá… để làm rõ vấn đề.
Đầu tiên chúng tôi sẽ tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài sau đó đi vào phân tích thơ văn Nguyễn Khuyến đồng thời so sánh với những tác giả khác trong văn học trung đại để làm cho đề tài thêm phong phú và thú vị.
Chương 1
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ VĂN TRUNG ĐẠI
1.1. Thiên nhiên trong thơ văn thời Lý - Trần.
1.1.1. Thiên nhiên trong thơ văn thời Lý.
Văn học thời Lý vốn mang nặng hệ ý thức Phật giáo. Đặc điểm của văn học thời kỳ này là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Phật giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần của dân tộc. Để đáp ứng nhu cầu truyền bá rộng rãi đạo Phật vào trong nhân dân, các nhà sư đã tìm cách thể hiện những triết lý Phật giáo vốn trừu tượng, khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên cứu, học tập. Và như vậy văn học thời Lý có tác dụng là công cụ hỗ trợ tích cực cho việc truyền bá lý thuyết đạo Phật. Do đó thiên nhiên trong văn học thời này chủ yếu gắn liền với những quan niệm triết lý của Phật giáo.
Triết lý Phật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ này cùng chung một bản thể. Cùng một bản thể mà lại biến hóa và biểu hiện dưới muôn vàn dạng thức khác nhau. Phật giáo đã cho rằng mọi vật trong thế gian này chỉ là muôn vàn dạng thức biểu hiện của cùng một bản thể, thì tất phải cho rằng con người cùng với trời đất và muôn loài chẳng qua chỉ là cùng một thể chất. Với quan niệm ấy, văn học Thiền tông đã dễ dàng đem nhập con người làm một với thiên nhiên. Đoàn Văn Khâm trong bài thơ “Văn Quảng Trí thiền sư” đã tỏ lòng thương tiếc nhà sư vừa mất như sau:
“Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình”.
(Các đạo hữu không nên đau thương vì sự vĩnh biệt, Núi sông trước chùa trông xa, ấy là chân hình của nhà sư).
Như vậy quan niệm của Phật đồng nhất bản thể của con người với thiên nhiên. Dù cho nhà sư có chết đi thì đó chỉ là sự hủy diệt về mặt thân xác, còn bản thể thật sự của nhà sư thì vẫn tồn tại mãi trong thiên nhiên, cây cỏ, núi sông.
Ngoài ra, hình ảnh thiên nhiên thường xuất hiện trong thơ văn thời kỳ này chủ yếu là để giúp cho các nhà sư giảng dạy những lý thuyết Phật giáo của họ:
“Giác hưởng tùy phong xuyên trúc đáo,
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai”.
(Kệ của thiền sư Viên Chiếu)
(Tiếng tù và theo gió luồn trúc mà đến, Ngọn núi cao cõng trăng vượt tường mà qua).
Hay:
“Xuân hoa dữ hồ điệp,
Cơ luyến cơ tương vi”.
(Kệ của thiền sư Viên Chiếu)
(Hoa xuân và bươm bướm, Hầu quyến luyến nhau lại hầu xa rời nhau).
Thiên nhiên xuất hiện trong những câu thơ trên vừa trữ tình, lãng mạn lại vô cùng giàu hình ảnh, giàu sức gợi tả. Nhưng thực chất những câu thơ này không nhằm vào việc miêu tả thiên nhiên mà chỉ cốt ý làm sáng tỏ cho quan niệm về sự hòa đồng giữa vạn vật và con người. Đó là sự xóa bỏ ranh giới giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Những hình tượng sinh động và những tứ thơ độc đáo đã làm cho thiên nhiên dù không phải là bức tranh của hiện thực nhưng vẫn rất gợi hình đồng thời chuyển tải được những triết lý Phật giáo nằm ẩn đằng sau câu chữ của bài kệ.
Tuy dùng thơ để truyền đạt những lý thuyết vốn khô khan, khó nhớ của đạo Phật nhưng các nhà sư vẫn có những lời thơ rất đẹp về thiên nhiên với đầy đủ màu sắc, hương vị và âm thanh.
“Khô mộc phùng xuân hoa giác phát,
Phong suy thiên lý phức thần hương”
(Cây héo vào xuân hoa nở dậy, Gió đưa ngàn dặm nức hương thần)
Hay:
“Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu noãn nhật oanh”.
(Hoa cúc tiết dương nở chân giậu, Chim oanh ngày trời ấm hót đầu cành).
Thiên nhiên xuất hiện trong thơ đời Lý không hề cứng nhắc khô khan mà rất giàu xúc cảm với một niềm thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống mặc dù khung cảnh thiên nhiên trong thơ thường bị chi phối bởi cái nhìn “sắc không”. Chẳng hạn ở bài Cáo tật thị chúng, Mãn giác thiền sư đã làm sáng tỏ cho quan niệm “sắc không”của nhà Phật qua sự đối sánh giữa thời gian tuần hoàn của vũ trụ với thời gian ngắn ngủi của đời người đồng thời thể hiện niềm hy vọng của con người trong cuộc sống:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tân,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
(Xuân qua trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa đua nở. Việc đời trôi qua trước mắt, Cảnh già hiện ra trên mái đầu. Chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua, sân trước, một nhành mai).
Nhìn chung, thơ Thiền tông đời Lý mỗi khi đề cập đến thiên nhiên thì các thiền sư đều muốn qua đó gửi gắm những quan điểm triết học của mình. Đáng chú ý là quan niệm vạn vật nhất thể của Thiền tông đã đưa đến sự hòa đồng giữa nhà thơ và thiên nhiên. Sự hòa đồng này đã làm cho thiên nhiên trở nên rất đỗi gần gũi, gắn bó với con người trong một thể thống nhất hoàn chỉnh.
1.1.2. Thiên nhiên trong thơ văn thời Trần
Bên cạnh việc phản ánh lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, văn học thời Trần còn thể hiện lòng yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của đất nước. So với thiên nhiên trong thơ văn thời Lý, thiên nhiên trong thơ văn thời Trần đã có nhiều nét thực hơn và đẹp hơn hẳn. Các nhà thơ không còn dùng thơ văn để thuyết giáo cho những lý thuyết của nhà Phật nữa mà thay vào đó là những cảm xúc rất tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Họ đã bắt đầu chú ý đến việc miêu tả cuộc sống bình dị nơi thôn dã:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
(Xóm trước thôn sau tựa khói lồng, Bóng chiều như có thoắt dường không. Mục đồng thổi sáo trâu về hết, Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
(Thiên Trường vãn vọng – Trần Nhân Tông).
Tuy nhà thơ chỉ miêu tả bằng thứ ngôn ngữ rất giản dị nhưng vẫn thể hiện được cái “thần” riêng của bức tranh phong cảnh. Không chỉ miêu tả cuộc sống và sinh hoạt của con người nơi thôn dã, các nhà thơ thời này còn mang khát khao muốn thâu tóm tất cả những chi tiết phong phú của cảnh vật thiên nhiên vào trong bức tranh thơ của họ:
“Cô tự thê lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá,
Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ”.
(Ngôi chùa cổ ẩn mình sau lớp khói mùa thu, Thuyền câu hiu hắt, chuông chiều bắt đầu điểm. Nước trong, núi lặng, chim âu trắng bay qua, Gió im, mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ)
(Lạng Sơn vãn cảnh – Trần Nhân Tông)
Ngoài ra, ở nhiều bài thơ của các nhà thơ thời kỳ này, thiên nhiên không chỉ là đối tượng thẩm mỹ mà còn là điều kiện để các nhà thơ giải bày, bộc bạch tâm sự của mình. Chẳng hạn, Trần Minh Tông đã từng mượn tiếng mưa đêm để nói lên tâm trạng ân hận, day dứt không nguôi suốt ba mươi năm vì một quyết định sai lầm của mình mà dẫn đến cái chết vô tội của hàng trăm người trong vụ án Trần Quốc Chẩn (1328):
“Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích tiêu song ngoại độ tàn canh.
Tự tri tam thập niên tiền thác,
Khẳng bã nhàn sầu đối vũ thanh”
(Dạ vũ – Trần Minh Tông)
(Hơi thu hòa cùng ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai, Giọt mưa rơi trên tàu lá chuối ngoài song cửa tiễn canh tàn. Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước, Nay đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi)
Không chỉ yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của đất nước các nhà thơ thời kỳ này còn thông qua những bức tranh thiên nhiên để thể hiện niềm tự hào về những chiến công oanh liệt của dân tộc.
“Lâu Lãi hang sâu hơn đáy giếng,
Chi Lăng ải hiểm tựa trời cao.
Ngựa leo, gió lướt ngoảnh đầu lại,
Cửa khuyết trời tây mây ráng treo”
(Ải Chi Lăng – Phạm Sư Mạnh).
Với niềm tự hào về truyền thống đấu tranh vẻ vang của dân tộc, các tác giả thường khai thác đề tài sông Bạch Đằng với cảm hứng ca ngợi đầy sảng khoái, tự hào:
“Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô”
(Bạch Đằng giang – Trần Minh Tông)
Như vậy, thiên nhiên trong thơ văn thời Trần hết sức phong phú, đa dạng. Các nhà thơ đã bước đầu phát hiện và cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà tuyệt vời của thiên nhiên đất nước. Đây là sự tiếp nối thơ văn miêu tả thiên nhiên của thời Lý và là nền tảng để các nhà thơ giai đoạn sau kế thừa và phát huy.
1.2. Thiên nhiên trong thơ văn thời Lê
Nếu kể từ năm 1418 là khi Lê Lợi khởi nghĩa cho đến năm 1505 ( khi Lê Hiển Tông mất, thì thời thịnh của nhà Lê kéo dài non một trăm năm. Văn học thế kỷ XV được chia thành hai giai đoạn với hai nội dung khác nhau:
1.2.1. Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV
Nội dung chủ yếu của văn học nửa đầu thế kỷ XV là nội dung ca ngợi cuộc kháng chiến chống quân Minh và người anh hùng Lê Lợi. Đây là giai đoạn văn học tập trung phản ánh cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc và những cố gắng nhằm xây dựng chế độ trong thời bình. Âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo của văn học nửa đầu thế kỷ XV. Chính vì thế, các tác gia thời kỳ này khi viết về thiên nhiên cũng mượn thiên nhiên để thể hiện âm điệu này.
Trước tiên, thiên nhiên trong văn học nửa đầu thế kỷ XV thể hiện niềm tự hào về những địa danh đã làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Những địa danh nổi tiếng như Lam Sơn, núi Chí Linh, sông Bạch Đằng đã lần lượt xuất hiện trong sáng tác giai đoạn này nhằm ca ngợi truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta.
Cuộc kháng chiến chống xâm lược và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã trở thành nguồn đề tài lớn cho các nhà văn, nhà thơ mặc sức sáng tác với tên tuổi của tác gia như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thời Trung,… Chẳng hạn Nguyễn Mộng Tuân được mệnh danh là một “kiện tướng về phú” trong đó có nhiều bài phú ca ngợi kháng chiến như Chí Linh sơn phú, Lam Sơn phú, Lam Sơn giai khí phú, Nghĩa Kỳ phú… Hay Lý Tử Tấn cũng có Chí Linh sơn phú, Xương Giang phú vừa là những bài vừa mô tả tinh thần kháng chiến anh dũng của quân dân ta vừa vạch tội ác dã man của quân giặc. Ngay cả người anh hùng Nguyễn Trãi cũng có những câu văn rất đẹp về những địa danh đã làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc
“Nhìn núi này cao vợi vợi chừ, nhớ xưa gian khổ,
Gây dựng nên nghiệp vương chừ, quên lãng sao đang.
Xin ghi thịnh đức vào đá chừ, lưu truyền bất hủ,
Mãi nghìn đời, vạn đời chừ, cùng trời đất miên trường”.
(Chí Linh sơn phú - Nguyễn Trãi)
Bên cạnh đó thiên nhiên lúc bấy giờ được thể hiện qua cái nhìn lý tưởng về một xã hội lý tưởng mà các nhà thơ muốn xây dựng.
“Tinh đẩu nhất thiên giai củng bắc,
Giang hà vạn phái tận trào đông.
Mao nghê cổ vũ quy vương hóa,
Hà nhĩ âu ca yển đức phong”.
( Tứ hải nhất gia - Lý Tử Tấn)
(Cả trời sao đều quay về hướng bắc, Muôn dòng sông thảy nhằm vào hướng đông. Già lẫn trẻ mừng rỡ theo về vương hóa, Khắp xa gần vui hát, thuận triều đức phong).
Bài thơ ca ngợi mối thống nhất của nước Đại Việt, và niềm mơ ước về một đất nước hòa bình thống nhất của nhà thơ Lý Tử Tấn. Và Nguyễn Trãi trong bài thơ Hạ quy Lam Sơn I cũng đã vẽ nên một hình ảnh rất đẹp về đất nước trong cảnh thái bình:
“Viễn phương ngọc bạch đồ vương hội,
Trung Quốc uy nghi đổ Hán quan.
Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san”
(Hạ quy Lam Sơn I)
(Phương xa mang ngọc lụa đến dâng, vẽ thành bức tranh “vương hội”, Uy nghi của nước cũ lại được thấy ở các quan triều đình mới khôi phục. Khí dữ phương Bắc đã trong, sóng kình đã lặng, Non sông nước Nam còn mãi muôn đời).
Không chỉ thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, ca ngợi đất nước trong thời hòa bình, các nhà thơ còn đi sâu vào việc miêu tả thiên nhiên gắn liền với đời sống hiện thực. Đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp mang đậm phong vị quê hương và rất mực gần gũi. Ta có thể bắt gặp những vần thơ viết về thiên nhiên thôn dã vừa tinh tế lại vừa giản dị trong thơ văn thời kỳ này:
“Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên”.
(Bao giờ làm được nhà dưới núi mây, Múc nước suối nấu chè, gối hòn đá ngủ).
Đó là những dòng chữ miêu tả thiên nhiên bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi. Còn ở thơ Nôm, ông đã phản ánh một cách cụ thể về cuộc sống và con người Việt Nam qua hình ảnh thiên nhiên. Tác giả miêu tả phong vị quê hương thật đậm đà bằng cách sử dụng chữ Nôm - tiếng mẹ đẻ của dân tộc:
“Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải rảnh mồng tơi”
(Ngôn chí - bài 9)
“Ao quan thả gửi bè rau muống,
Đất bụt ương nhờ một rảnh mùng”.
(Thuật hứng- bài 23)
Qua những bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi ta thấy những ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả thiên nhiên đã được thay dần bằng những chất liệu của đời sống thực. Đó là bè rau muống, rảnh mồng tơi, kê, khoai, … những sản vật rất gần gũi với người nông dân và cuộc sống nông thôn.
Cùng với Nguyễn Trãi, nhà thơ Lý Tử Tấn cũng có những bài thơ miêu tả thiên nhiên rất hay, mang đậm màu sắc thôn dã:
“Hòe thủ âm âm đạc vấn tường,
Hà hoa niểu niểu phiến tân hương.
Nhất phần thu sắc quân thiên sắc,
Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang.
Tử giải hàm hoang sơ thướng đoạn,
Hương duyên đái lục sảo thiêm nhương”.
(Sơ thu - Đầu mùa thu)
(Cây hòe đo bóng trên tường phấn, Hương sen dịu dàng phả hương thơm mới. Một phần sắc thu pha với sắc trời, Bốn bề ánh núi tiếp liền ánh nước. Cua đỏ tía ngậm gạch vàng đã chui vào rọ, Phật thủ thơm đượm màu xanh, dần dần thêm múi).
Phong vị quê hương mà Lý Tử Tấn yêu mến và miêu tả đã gợi lên cho chúng ta những vần thơ của Nguyễn Trung Ngạn vào thế kỷ XIV:
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa cua béo ghê
Nghe nói quê nhà nghèo vẫn tốt
Giang Nam vui thú chẳng bằng về”
(Quy hứng)
Các nhà thơ trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV không chỉ thể hiện tấm lòng yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của quê hương đất nước mà bên cạnh đó còn phần nào bộc lộ những bất mãn đối với chính quyền phong kiến. Là những người trí thức đầy tài năng nhưng không được trọng dụng nên đôi lúc họ cảm thấy bất mãn thời thế, chán nản muốn về quê ở ẩn, lánh xa chốn danh lợi nhiều cạm bẫy. Chính vì thế họ sống hòa mình với thiên nhiên, mượn thiên nhiên làm bầu bạn để tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Chẳng hạn, ở nhà thơ Nguyễn Trãi ta sẽ bắt gặp một hồn thơ chan hòa tình cảm đối với thiên nhiên và con người. Ông luôn có cách nhìn, cách cảm sâu sắc trước vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, xem thiên nhiên là bạn, là láng giềng, là anh em trong những ngày ở ẩn tại Côn Sơn:
“Cò nằm hạc lặn nên bầy bạn.
Ấp ủ cùng ta làm cái con”.
Hay:
“Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh”.
1.2.2. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XV
Văn học nửa cuối thế kỷ XV được tính từ năm 1460, năm Lê Thánh Tông lên ngôi. Lúc này, chế độ phong kiến của nước ta đang ở vào thời kỳ thịnh trị. Ở thời kỳ này nhà vua là người giám sát và chỉ đạo trực tiếp việc sáng tác văn học của triều thần. Lực lượng sáng tác chủ yếu là nho sĩ quan liêu, nhất là các triều thần được Lê Thánh Tông tuyển chọn vào Hội Tao Đàn. Do đó, nội dung chủ yếu của văn học giai đoạn này là nội dung thù phụng, ca ngợi sự thịnh trị của chế độ phong kiến và tài đức của vua Lê Thánh Tông.
Các nhà thơ sáng tác dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà vua về đề tài, cảm hứng nên đôi khi khuynh hướng ca ngợi, thù tạc không kém phần khiên cưỡng, thụ động. Và thiên nhiên trong giai đoạn này (trong Hồng Đức quốc âm thi tập) có nhiều bài mang tính chất ngâm vịnh tiêu khiển với đề tài công thức, tuy cũng có câu đẹp, lời hay nhưng phần nhiều sáo rỗng, ít giá trị. Tuy nhiên cũng có một số bài của một số tác giả thể hiện được tình cảm chân thực của nhà thơ đối với cảnh vật, trong số đó đáng chú ý là những bài miêu tả cảnh vật thiên nhiên mang đậm màu sắc dân tộc. Chẳng hạn, nhà thơ Nguyễn Trực đã có những nét độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên đơn giản nhưng có ý nghĩa sâu sắc:
“Địa viễn phi trần thiểu,
Sơn cao đắc nguyệt đa”.
(Đề Cực Lạc tự)
(Xa đất nên bụi ít, Trên cao được trăng nhiều).
Hay nhà thơ Thái Thuận thì lại chú ý đến cái bình thường, dung dị nơi đồng quê:
“Mao xá nhân yên lý,
Cô chu tiểu bạc thì.
Thôn đồng tam tứ bối,
Duyên thủy mịch bành kỳ”.
(Hoàng giang tức sự)
(Nhà cỏ tuôn làn khói, Thuyền con ghé mái bồng. Trẻ con năm bảy tốp, Bắt cáy dọc ven sông)
Nhà thơ Nguyễn Bảo lại có những bức tranh quê hết sức cụ thể và sinh động. Tình cảm trong thơ ông là tình cảm của một người gắn bó sâu sắc với làng mạc, ruộng đồng:
“Ly biên ế ế giá miêu trưởng,
Thảo lý thanh thanh vu diệp hy”.
(Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn, Khoai trong đám cỏ đã xanh cây).
Các tác giả nói trên phần nhiều không hề chịu sự gò bó theo những khuôn mẫu của văn học cung đình, và đã có những nét tiến bộ rõ rệt trong nội dung sáng tác mà đặc biệt là trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Qua những bài thơ viết về thiên nhiên của họ chúng ta bắt gặp ở đó tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc đời một cách chân thành và vô cùng sâu sắc.
Đó là những nhà thơ không bị ảnh hưởng của lối ngâm vịnh khuôn sáo chốn cung đình. Còn những nhà thơ cung đình mặc dù bị gò bó trong những quy tắc khuôn sáo nhưng thơ viết về thiên nhiên của họ vẫn có những câu, những bài rất hay khi viết về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước. Chẳng hạn, chủ nghĩa yêu nước trong thơ văn Lê Thánh Tông được biểu hiện ở lòng tự hào vì non sông đất nước tươi đẹp, hùng vĩ. Thơ văn của Lê Thánh Tông đã dành phần lớn cho cảm hứng về thiên nhiên. Đây là cảnh đẹp của núi Lam Sơn, sông Lương Thủy nơi phát tích của nhà Lê:
“Núi Lam Sơn cao chót vót như ôm lấy núi Thiên Mục, núi Lam Sơn vươn mình tựa vào núi Thụ Mệnh. Hình dạng núi Lam Sơn im lặng như thương đàn trẻ thơ, lởm chởm như dựng đứng những giáo mác. Ngọn núi cao ngất rồi phẳng dần, thế núi bất bình rồi hoàn tán. Núi có chỗ to lớn và kéo dài, núi có chỗ bằng phẳng và thư thái.
…(Sông Lương Giang) sóng mạnh nổi lên, đua nhau so sánh chiều cao; nước thác ầm ĩ như thiêng liêng nhảy vọt. Gió gầm thác mạnh, chảy vướng lại lùi. Sóng tan rã rồi chảy mạnh, sóng to lớn cứ găng nhau…”
(Phú chữ Hán: Lam Sơn Lương Thủy phú).
Thơ vịnh cảnh của Lê Thánh Tông thường thể hiện sự quan tâm đến cuộc đời hơn là đi tìm cái đẹp thiên nhiên thuần túy. Nhà vua miêu tả thiên nhiên nhưng cũng đồng thời vẽ lại cảnh giàu có của đất nước:
“Tang giá liêu vân thổ vũ khoan,
Biều luân chưng phủ trọng kim hoàn.
Nhân gia đa thiểu lục âm hạ,
Xuyết thốc tâm trung địch bạc can”.
(Tang châu)
(Xanh tốt đồng dâu rộng thênh thang, Bầu, nồi quý giá tựa the vàng. Dưới chòm cây mát nhà dăm mái, Vựa kén lau khô xếp dọc ngang).
Như vậy thơ văn trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XV mặc dù mang tính chất công thức, khuôn sáo do ảnh hưởng của lối sáng tác cung đình nhưng bên cạnh đó, vẫn có những bài thơ rất hay viết về thiên nhiên. Các nhà thơ đã có sự sáng tạo dần trong việc miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ gần với đời sống thực hơn mà còn thể hiện sự quan tâm và yêu mến cuộc sống của các tác giả thời kỳ này.
1.3. Thiên nhiên trong thơ văn từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII
Do tình trạng xã hội phức tạp nên các xu hướng văn học thời kì này có tính chất chống đối nhau. Thơ văn từ nửa cuối thế kỷ XVI – đến nửa đầu thế kỷ XVIII bên cạnh nội dung Thù phụng, ca ngợi chính quyền phong kiến còn có nội dung tố cáo hiện thực xấu xa thối nát của chính quyền phong kiến đương thời. Tuy nhiên trong giai đoạn này văn học vẫn có nội dung ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên đất nước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của thế kỷ XVI. Tiếng thơ của ông cũng là tiếng nói của thế kỷ XVI, thế kỷ mà chế độ phong kiến nước ta bước đầu đi vào con đường khủng hoảng, do đó tư tưởng của các tầng lớp sĩ phu cũng có nhiều xu hướng phức tạp. Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu sống ở nông thôn nên phần lớn tác phẩm của ông được viết trong bối cảnh nông thôn khi nhà thơ về ở ẩn. Trong nhiều bài thơ, Hán cũng như Nôm, ngoài những tình cảm đối với con người, nhà thơ thường miêu tả cảnh đẹp ở thôn quê và lòng tha thiết của ông đối với cuộc sống ẩn cư. Đối với thiên nhiên, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ít có những nét bút hào hứng, hoành tráng như thơ Nguyễn Trãi. Có lúc ông dựa vào thiên nhiên để phát biểu những quan điểm triết học hoặc quan niệm nhân sinh:
“Sơn đới thu dung thanh chuyển sấu,
Giang hàm nguyệt ảnh bạch tương xai.
Cơ quan liễu khước đô vô sự,
Tân quán sài môn tận nhật khai”.
(Ngụ hứng)
(Núi đượm sắc thu màu xanh hóa nhạt, Sông lồng bóng nguyệt, sắc trắng ganh nhau. Trong lòng không có cơ tâm thì tự nhiên vô sự, Cửa sài ở quán Tân cứ mở suốt ngày).
Thơ ông thường thể hiện tình cảm ấm áp, tâm hồn trong trẻo trong sự gắn bó giữa con người và cảnh vật:
“Trăng trong gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri”
(Thơ chữ Nôm: bài 90)
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa giản dị, tươi đẹp:
“Giang sơn tám bức là tranh vẽ,
Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu”.
(Thơ chữ Nôm: bài 3)
lại vừa sinh động, tinh tế, hấp dẫn:
“Oanh sơ đầu thiệt tu huỳnh sáp,
Điệp bất câm phong hộ phấn nhi”.
(Thơ chữ Hán: Tao xuân)
(Chim oanh vàng rụt rè, vừa tập uốn lưỡi, Con bướm phấn bạo dạn, theo gió tung bay).
Với niềm yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nên những lời thơ mỹ lệ, tươi mát, hồn hậu thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc đời sâu nặng
Ngoài ra, do tình hình nước nhà tạm thời bị chia cắt nên văn học phân giới Bắc Nam sông Gianh và vì vậy thiên nhiên trong thơ văn thời kỳ này cũng có sự khác nhau giữa Đàng ngoài và Đàng trong. Về nội dung tư tưởng, văn học Đàng ngoài ở thế kỷ XVII, XVIII, trừ những tác phẩm có ít nhiều yếu tố chân thực, phần lớn đầy tính chất thù phụng. Trịnh Căn thông qua cảnh trí thiên nhiên để nói lên sự phồn vinh giả tạo của thế kỷ XVII:
“Lá tuôn doành quế màu lai láng,
Gấm trải đường hoa khách dập dìu”
(Quán Trấn Võ)
Hoàng Sĩ Khải cũng mô tả cảnh đẹp Thăng Long nhưng chỉ nhằm mục đích thù phụng triều đại mới:
“Trường An phong cảnh hữu tình,
Có đường giong ngựa có thành xem hoa.
Cớ chi mày hỡi con đỗ vũ?
Quyến xuân về lại rủ hè sang.
Hây hây mơ mệt hải đường,
Xanh phô màn liễu, lục trương tán hòe”.
(Tứ thời khúc vịnh – Hoàng Sĩ Khải)
Do mang tính chất thù phụng nên thơ văn viết về thiên nhiên của các tác giả này phần lớn mang tính công thức và cầu kỳ. Thiên nhiên tuy đẹp nhưng lại không hề mang tính chân thực mà chỉ là sự thù phụng ca ngợi sự thịnh trị giả tạo của chính quyền phong kiến đương thời. So với văn học Đàng ngoài thì văn học Đàng trong thể hiện hình ảnh thiên nhiên rất mực chân thực mặc dù hình thức nói chung còn thô sơ. Đọc những đoạn thơ của Đào Duy Từ ca tụng cảnh Tư Dung ở Thuận Hóa, những đoạn thơ của Mạc Thiên Tích ca tụng cảnh Hà Tiên, chúng ta thấy cả một niềm vui, một sự tin tưởng ở tương lai, không hề thấy ở đây tư tưởng bi lụy chán đời, dù có đôi chỗ ca ngợi với ý nghĩa thù phụng:
“Khéo ưa thay cảnh Tư Dung,
Cửa thông bốn bể nước thông trăm ngòi.
Trên trời tinh tú phân ngôi,
Đêm treo thỏ bạc, ngày soi ác vàng.
Dưới thời sơn thủy khác thường,
Động Đình ấy nước, Thái Hàng kìa non…”
(Tư Dung vãn – Đào Duy Từ)
Mạc Thiên Tích mặc dù là người Trung Quốc nhưng ông đã có công khai phá vùng đất Hà Tiên và gắn bó với nơi này. Đọc Hà Tiên thập vịnh và Lư Khê nhàn điếu phú, chúng ta không chỉ bàn đến tinh thần yêu thiên nhiên đất nước, tinh thần nhàn tản yêu đời, mà còn chú ý đến tinh thần Việt hóa trong tư tưởng và qua bút pháp của tác giả. Trong Hà Tiên thập vịnh bằng quốc âm, điển tích đã ít dùng và lời văn đã khá thanh thoát:
“Dưới rừng mấy trẻ mục đồng,
Lưng trâu thổi địch, gió lồng theo khe”.
Hay:
“Hiu hiu ai phất gió đông,
Trên hồ tinh tú một dòng lung lay”.
Tóm lại thiên nhiên trong văn học giai đoạn này bên cạnh mục đích thù phụng, ca ngợi chính quyền phong kiến là chủ yếu những vẫn có những vần thơ rất hay viết về thiên nhiên và những cảnh sắc tươi đẹp của đất nước. Với sự phân chia văn học Đàng ngoài và văn học Đàng trong, các nhà thơ đã thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước ở cả hai miền và mỗi nơi đều có những nét đẹp riêng mặc dù hình thức vẫn còn thô sơ thiếu sự trau chuốt.
1.4. Thiên nhiên trong thơ văn từ nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX được bắt đầu với sự ra đời của tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và kết thúc với tác giả Cao Bá Quát. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vì sự phát triển của nó mà nhiều nhà nghiên cứu đã mệnh danh cho giai đoạn này là giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam. Văn học giai đoạn này có một diện mạo riêng với một lực lượng sáng tác hùng hậu và những đổi thay với nhiều khuynh hướng phức tạp, với những đặc điểm rất nổi bật. Thiên nhiên trong giai đoạn văn học này cũng vô cùng phong phú. Từ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đến thơ Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều của Nguyễn Du, thiên nhiên lần lượt xuất hiện với những đặt sắc khác nhau. Thiên nhiên gắn liền với phong cách tác giả.
Ở tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn do Đoàn Thị Điểm diễn Nôm ta thấy: bút pháp tả cảnh trong Chinh phụ ngâm cũng đã phục vụ đắc lực cho việc biểu hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. Người ta thường ca ngợi tài năng của Nguyễn Du trong việc tả cảnh ngụ tình. Về phương diện này, Chinh phụ ngâm cũng thành công không phải ít. Ngoại cảnh ở đây gắn bó với tình người nhưng là tình yêu đôi lứa. Từ cảnh tiêu điều lạnh lẽo của một ngày đông u ám:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cảnh cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”.
đến cảnh đẹp đẽ não nùng quyến rũ trong một đêm trăng lộng lẫy:
“Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông”.
đều liên quan đến nỗi khát khao thầm kín nhưng thiết tha của người chinh phụ. Rồi cảnh bạt ngàn của rừng chiều điểm bóng dáng một người lữ khách:
“Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về”
đã nói rất nhiều về nỗi lòng mong đợi của người khuê phụ.
Nhìn chung thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm mang nặng tính chất ước lệ tượng trưng mặc dù thiên nhiên chủ yếu là dùng để miêu tả nội tâm nhân vật và những khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn người chinh phụ.
Đến với Hồ Xuân Hương, nhà thơ nữ tiêu biểu nhất và cũng phức tạp nhất của văn học giai đoạn này ta sẽ thấy thiên nhiên trong thơ nữ sĩ gắn liền với con người và phẩm cách, cá tính độc đáo của bà. Tình cảm đối với thiên nhiên trong thơ hồ Xuân Hương rất chân thực và tràn đầy sức sống.Trong thơ Hồ Xuân Hương những bài thơ lấy đề tài trong cảnh vật thiên nhiên hay cảnh vật sinh hoạt hằng ngày chiếm hơn một nửa số lượng thi phẩm. Trong số đó ta có thể tìm thấy một ít bài mà tác giả của nó viết ra không phải cốt để tả cảnh, mà chỉ là mượn một cảnh, một vật nào đấy để chế giễu các hạng người thường tự xưng là “anh hùng”, là “quân tử” (Quả mít, Con ốc nhồi…), có bài tác giả gởi gắm vào đấy một nỗi niềm tâm sự của mình (Bánh trôi nước). Ngoài ra, trong những bài khác, Xuân Hương đã nói lên cái lòng yêu mến thắm thiết của mình đối với cảnh vật.
Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương tươi tắn, đậm đà và khỏe mạnh:
“Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông”
(Giếng nước)
Thế giới vô tri vô giác trong thơ bà luôn cựa quậy, động đậy như tuồng cái sức sống nội tại trong nó tràn đầy quá, mãnh liệt quá.
“Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu, giọt sương gieo”.
(Đèo Ba Dội)
Nói đến nghệ thuật tả cảnh của Xuân Hương, ta thường so sánh với thơ của Bà huyện Thanh Quan, một nữ sĩ ra đời sau Xuân Hương không xa mấy. Điều này rất có ý nghĩa. Lấy một bài tiêu biểu của Bà huyện Thanh Quan, bài Qua đèo Ngang ta sẽ thấy trong đó một thế giới “không hình, không sắc, không mùi vị”, có tiếng cuốc, tiếng đa đa nhưng thực ra đó là thứ âm vang mơ hồ ở trong lòng con người. Và trong cái thế giới đó, cả không gian, cả thời gian, cả con người đều lắng xuống trong một trạng thái ngưng đọng vĩnh viễn.
Xuân Hương là một nhà thơ yêu đời, yêu người, thiết tha với cuộc sống. Chính vì thế bà yêu thiên nhiên trong cái độ phát triển sung sức của nó. Đứng trước thiên nhiên ngay trước những gì tầm thường, nhỏ nhặt nhất, hình như bao giờ bà cũng có một sự ngạc nhiên thú vị, bao giờ nữ sĩ cũng tìm thấy một hứng thú mới mẻ, một lý do để gắn bó với cuộc sống:
“Đá kia có biết xuân già dặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung”.
(Đá ông chồng bà chồng)
Tình cảm đối với thiên nhiên của Hồ Xuân Hương là thứ tình cảm chân thành lành mạnh, khác hẳn với những thứ tình cảm đối với thiên nhiên giả tạo, khuôn sáo hoặc yếu đuối đầy rẫy trong văn học phong kiến của ta và cả trong văn học lãng mạn sau này.
Nguyễn Du là nhà thơ có tên tuổi chói lọi nhất của giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam. Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Du và cũng là tác phẩm tiêu biểu nhất cho giai đoạn văn học cổ điển rực rỡ này. Tác phẩm Truyện Kiều thành công về cả mặt nội dung lẫn hình thức và đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng mang những nét vô cùng độc đáo góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.
Phong cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều có đầy đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và mỗi mùa đều có những nét đẹp riêng. Đây là vẻ đẹp của mùa xuân:
“Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Hay vẻ đẹp của mùa hè:
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Thiên nhiên mang đầy những hình ảnh, màu sắc và âm thanh vô cùng gợi cảm và tràn đầy sức sống. Nhưng điều đặc biệt trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến việc miêu tả thiên nhiên để làm nền cho sự xuất hiện của các nhân vật. Đồng thời Nguyễn Du cũng xem thiên nhiên như một tạo vật có hồn, một nhân vật chứng kiến và cảm thông với mọi nỗi buồn đau của con người:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đặc biệt thành công khi miêu tả phong cảnh thiên nhiên. Nếu ở tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, phong cảnh thiên nhiên chỉ là những nét vẽ mờ nhạt, sơ sài, thiếu sức sống thì đến với Truyện Kiều, Nguyễn Du lại thổi cái hồn vào những phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp làm nền cho tác phẩm.
“Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh”
Những cảnh vật vừa thi vị hóa vừa biểu hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật. Và đối với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tạo dựng những hình ảnh thiên nhiên vừa đẹp, vừa có hồn. Và hơn thế nữa thiên nhiên còn là một nhân vật chứng kiến mọi nỗi buồn vui của con người trong truyện với thái độ cảm thông sâu sắc:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”.
Riêng tả cảnh thì Nguyễn Du cũng theo truyền thống có sẵn trong văn học Trung Quốc cũng như trong văn học Việt Nam. Cảnh xen vào tâm trạng con người là để làm nổi bật tâm trạng ấy. Nhiều khi không trực tiếp tả tâm trạng nhân vật mà thông qua cảnh vật để gợi lên tâm trạng ấy. Tuy vẫn có những chỗ mang tính chất công thức, ước lệ tượng trưng nhưng các yếu tố của đời sống thực dần được nhà thơ chú ý khai thác. Có thể nói đối với Nguyễn Du, thiên nhiên là công cụ phục vụ đắc lực cho việc bộc lộ nội tâm nhân vật.
Nhìn chung thiên nhiên trong giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX đã có sự tiến bộ vượt bậc so với các giai đoạn trước. Thiên nhiên lúc bấy giờ đã có sự trau chuốt về mặt hình thức và hoàn thiện về mặt nội dung. Đặc biệt, thiên nhiên trong thơ đã được các tác giả chú ý khai thác để làm bộc lộ cho nội tâm nhân vật và cũng đồng thời giúp cho các nhà thơ có thể bộc lộ tính cách và tài năng của mình.
Như vậy qua việc tìm hiểu thiên nhiên trong thơ văn trung đại, chúng ta đã có cái nhìn khái quát về thiên nhiên qua các thời kỳ. Ở mỗi thời kỳ khác nhau thiên nhiên trong thơ văn đều mang những đặc điểm riêng, những nét đặc sắc riêng.Tính chất công thức ước lệ nhìn chung được các tác giả sử dụng nhiều trong việc miêu tả thiên nhiên nhưng nó cũng dần được các tác giả thay thế bằng những chất liệu của đời sống hiện thực. Điểm qua một số đặc điểm của thiên nhiên trong thơ văn trung đại sẽ tạo nền tảng cơ sở để chúng ta đi vào tìm hiểu thơ văn Nguyễn Khuyến. Từ đó chúng ta sẽ thấy được sự kế thừa và phát huy của ông trong quá trình miêu tả thiên nhiên.
Chương hai
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN
Sau khi cáo bệnh từ quan, Nguyễn Khuyến trở về với ruộng vườn. Hai mươi năm của đời cụ là hai mươi năm giữa người, giữa cảnh thôn quê. Khác với Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến không chỉ mượn thiên nhiên làm bạn tiêu sầu, mà còn hòa mình vào cuộc sống nông thôn. Với đặc điểm ấy, lời thơ cụ Nguyễn Khuyến là những lời rung cảm chân thành của một tâm hồn dân quê, lắm khi nhẹ nhàng mộc mạc như lời ca dao. Thiên nhiên trong trong thơ ông không bó buộc phải là rộng lớn, đặc sắc, mà nhiều khi chỉ là những cảnh, những hình ảnh giản dị, quen thuộc của quê hương xứ sở, nhất là cảnh nông thôn: một ao thu nhỏ lạnh, một ngõ xóm trồng trúc, một khoảng trời xanh, một ngọn núi, một cánh đồng nước lụt, mảnh vườn sau nhà lúc vào hè. Những cảnh đó ông khéo khơi rộng và tìm ra những vẻ đẹp chưa ai khai thác bao giờ.
2.1. Bức tranh phong cảnh
2.1.1. Cảnh bốn mùa
Þ Cảnh mùa xuân
Trong văn học Viêt Nam, trước thời Nguyễn Khuyến, chúng ta gặp không ít những nhà thơ viết về mùa xuân với những bài thơ sâu sắc đầy ý và tình. Mỗi một tác giả, mỗi một giai đoạn văn học lại có một phong vị, một sắc thái thơ xuân riêng, biểu hiện tinh thần và cốt cách của nhà thơ và thời đại mình. Nhìn chung, thơ xuân từ thế kỷ X đến thế kỷ XV là thơ xuân của một thời kỳ rực rỡ những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm và bước đi ban đầu xây dựng nền độc lập tự chủ.
“Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát,
Phong xuy thiên lý phức thần phương”.
(Kệ của thiền sư Viên Chiếu)
(Cây héo vào xuân hoa nở dậy, Gió đưa ngàn dặm nức hương thần.)
Sang thế kỷ XVIII, mùa xuân đã bước vào thơ là tiếng nói tượng trưng cho vẻ đẹp, sức sống tình yêu và những khác khao hạnh phúc. Đó là mùa xuân xanh tươi qua cái nhìn của cô gái đang yêu trong thơ Phạm Đình Hổ, mùa xuân trong nỗi khắc khổ chờ đợi của người chinh phụ (Chinh Phụ Ngâm), mùa xuân của những gặp gỡ giữa Lương Sinh – Dao Tiên (Hoa Tiên), giữa Thúy Kiều - Kim Trọng (Truyện Kiều), giữa Phạm Thái – Trương Quỳnh Như (Sơ Kính Tân Trang),... hay mùa xuân buồn tủi, u uất trong thơ Hồ Xuân Hương.
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tý con con”.
Sang nửa thế kỷ XIX – một thế kỷ quật cường, đau thương trong lịch sử dân tộc - bên cạnh những cảm xúc về mùa xuân tươi đẹp, thơ xuân của Nguyễn Khuyến đã có thêm những ám ảnh cho thân phận nhà nho dưới thời thực dân đô hộ, có nỗi day dứt triền miên trước vận mệnh của đất nước và vận mệnh của người trí thức mất nước.
“Tân tế phương lai cựu tuế chu,
Quần phương giai uyển ngã hà khô?
... Vô lịch ná tri thư Giáp Tý,
Hữu cừu vị cảm độc Xuân thu”.
( Xuân nguyên hữu cảm)
(Năm mới đương đến năm cũ qua, Mọi hoa đều tươi sao riêng ta héo? ... Không có lịch, biết đâu mà ghi được Giáp Tý, Kẻ thù còn đó không dám đọc kinh Xuân thu.)
Đó là tiếng nói day dứt về nỗi đau mất nước, một sự bất lực của nhà thơ trước vận mệnh của đất nước, nó thiếu đi sự lạc quan như trong thơ Lý – Trần, cũng không có niềm say của những tình cảm yêu đương hay sắc thái cô đơn mà vẫn tự tin của thơ xuân thế kỷ trước.
Tuy nhiên, thơ xuân Nguyễn Khuyến không phải lúc nào cũng chỉ có ý nghĩa xã hội sâu sắc mà còn là những bức tranh xuân vừa chân thực vừa mang đậm phong cách làng quê. Cảnh không mang màu sắc ước lệ như thơ trước đó, nhưng giàu hình ảnh hiện thực.
Chúng ta hãy xem cảnh sắc nông thôn và phong tục tâm lý người dân quê ăn tết đón xuân để thấy được cái nhìn hiên thực của Nguyễn Khuyến. Nhà thơ đã miêu tả cực kỳ tinh tế cái xao xác đượm buồn của phiên chợ Đồng ngày giáp tết trong những năm đói kém.
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không?”
(Chợ Đồng)
Đọc thơ như được sống trong không gian, thời gian thuở ấy. Giữa trời mưa bụi còn hơi rét. Cái thời tiết mưa phùn gió bấc, phiên chợ làng tất niên họp ngoài cánh đồng.
Giọng thơ nghe chơi vơi tâm trạng người tha hương hoài niệm một tập tục của quê nhà. Nguyễn Khuyến rất giỏi chi tiết. Chi tiết ông chọn như dấu ấn của thời cuộc lại như những ấn tượng không thể quên của đời người
“Hàng quán người về nghe xáo xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.
Ở bài Khai bút cái tiếng trống ình ịch ẩm hơi mưa bụi cũng rất tinh tế:
“Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang”.
(Khai Bút)
Hình ảnh thơ lưu giữ một tư thế khai bút của nhà thơ.
“Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén,
Bút mới xô tay thử một hàng”.
Rượu thì nhắp giọng từ tốn. Bút thì xô tay hào hứng. Tư thế tài tử và tài hoa. Rồi, ngoài lũy trong ao. Có cả tên người cụ thể, cụ Tổng, thầy Nhang. Người địa phương đọc chắc thích lắm. Cung cách ăn tết này giờ không còn, càng thấy quý chất tư liệu cụ Tam nguyên Yên Đổ lưu giữ. Nhưng quý hơn là cái chất tâm hồn ông đại khoa về ở ẩn. Nguyễn Khuyến cũng có nỗi khắc khoải như Nguyễn Du
“Nhìn xem phong cảnh đều như cũ
Đố biết thiều quang ở chỗ nào”.
Nguyễn Khuyến có một đời sống tình cảm rất đỗi dồi dào. Ông cũng vui buồn, thương, giận, như mọi người bình thường khác. Nguyễn Khuyến trở về với nông thôn nhưng tấm lòng không hề nguội lạnh đối với việc mất nước. Cho nên đến lúc chết, tâm hồn ông không mấy khi được bình thản. Suốt một phần ba cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến đã sống trong một thứ âm thanh, tuy ảo giác, nhưng luôn vấn vít bên tai ông: Tiếng cuốc kêu tượng trưng cho lòng nhớ nước. Trong văn thơ ta cũng có nhiều tiếng cuốc, nhưng không ở đâu có tiếng cuốc lạnh lùng như ở bài Cuốc kêu cảm hứng nó mang trong đó tất cả một sự uất hận, nó kéo theo đó cả máu và sự sống
“Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng.
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ,
Thâu canh ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”.
(Cuốc kêu cảm hứng)
Nguyễn Khuyến cũng là con cuốc héo hon dần vì nhớ mãi một mùa xuân - mùa xuân của dân tộc đã đi qua. Cho nên trong lúc mùa xuân trở về, Nguyễn Khuyến vẫn không tìm thấy hứng thú gì, mà vẫn giữ một vẻ lơ láo, ngất ngơ
“Xuân về ngày loạn còn lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?”
(Ngày xuân dặn các con)
Nguyễn Khuyến mang nỗi đau buồn người trí thức mất nước. Ngày xuân thấy các con vui với xuân, ông nhẹ nhàng trách: Ta lẩn thẩn không biết lấy gì đền cho năm tháng trôi đi. Mà sao các con đàn hát say sưa thế. Trong cái đêm ba mươi tết sang tuổi năm mươi nhăm, tóc bắt đầu bạc, mắt đau nặng hơn, Nguyễn Khuyến ngồi dưới bóng đèn, lặng lẽ rót rượu uống một mình. Ông nhận xét: người nghèo chỉ có đêm nay là không phải lo. Không phải lo vì không có gì để kiếm và cũng không bị ai hành hạ, người ta còn bận đón xuân. Nhưng lòng ông thì đầy nghĩ ngợi cho năm tháng đời mình. Câu thơ kết đúng là thơ của đêm giao thừa:
“Nhất cú liên niên hứng vị cùng”
(Một câu thi hứng kéo liền hai năm).
Cũng có khi gia cảnh nhuốm màu tâm sự:
Sầu đa dạ lãn thính nhi độc,
Tửu quý xuân nan hóa khách thường
Chỉ hữu tác tiêu phung tiẻu vũ,
Bệnh chung tài sắc nhất phân cường.
(Xuân bệnh 2)
(Buồn quá ngại nghe con đọc sách, Rượu đắt khó có thể mời khách thưởng xuân. May có tối qua dược trận mưa nhỏ, Bệnh tật cũng đỡ được đôi phần.)
Có thể nói, thơ xuân của Nguyễn Khuyến, đã thể hiện đầy đủ những sắc thái của một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, nó là tiếng nói mới mẻ, và cũng là những đóng góp hết sức quý giá vào sự phát triển của nền thơ trữ tình dân tộc.
Þ Cảnh mùa hạ
Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. Các nhà thơ thời trung đại đều có những bài thơ rất hay viết về mùa hè.
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”.
(Nguyễn Du)
Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường. Nhưng trong bức tranh mùa hè của Nguyễn Khuyến thì hoàn toàn khác hẳn. Đó là một bức tranh quê buồn bã.
“Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thật ôi ả,
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy ngỏ cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhắp năm canh chầy,
Gà đã sớm giục giã”.
(Than mùa hè)
Cảnh ngày hè nóng bức, với tiếng dế kêu thiết tha và đàn muỗi thì bay tơi tả. Đây là hai nét chấm phá điển hình, cực tả được cái oi ngột vừa ngoại cảnh, vừa nội tâm. Nó chứa đựng một sự ngột ngạt của tâm trạng, sự ngột ngạt “ vô hồn” đúng như tựa đề bài thơ đã thể hiện. Than mùa hè tả cảnh một đêm hè nóng nực, bức bối ở nông thôn. Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh thiên thiên để chỉ nền đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta khi ấy cũng đang nặng nề, tăm tối như thế. Tác giả đã mượn hình ảnh tượng hình “tơi tả” để diễn tả sự đau đớn đến ngậm ngùi.
Thời tiết và cảnh vật như thế, càng làm cho lòng người thêm u uất và nặng trĩu, sự khó chịu của con người trước cái khắc nghiệt của thiên nhiên lại cộng thêm sự khó chịu về tình cảnh của đất nước đã làm cho không khí ngày hè đã nóng lại càng nóng hơn.
“Hè này nóng khổ quá!
Cỏ khô, đầm cạn cả.
Lại thêm ngọn gió tây,
Vật gì chẳng tàn tạ?”
(Mùa hè năm Nhâm Dần)
Con người là nạn nhân của tự nhiên đồng thời cũng là nạn nhân của chế độ thực dân hà khắc. Tác giả thể hiện tâm trạng khó chịu của sự oi bức không chỉ từ trên trời trút xuống mà còn từ dưới đất hắt lên từ những hơi ẩm thấp của mùa xuân còn rơi rớt lại.
“Ai xui con cuốc gọi hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê”
(Vào hè)
Có thể nói, trong bốn mùa, có lẽ mùa hè là mùa nóng nhất, ngột ngạt nhất và cũng làm cho con người dễ bức xúc nhất. Nhưng mỗi mùa đều mang một vẻ đẹp đặc trưng riêng của nó, mùa xuân sao có được không khí như mùa hè hay mùa thu và ngược lại. Chính vì thế cảm giác khác nhau trong từng mùa làm cho con người thích thú hơn. Thơ Nguyễn Khuyến tuy có bức rứt, có khó chịu nhưng vẫn có đặc trưng riêng của nó.
“Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.
Nhân hứng cũng vừa toan cất chén,
Sấm đông rầm rập gió nồm qua”.
(Vịnh mùa hè)
Trời mùa hè lúc nào cũng oi nồng, nóng bức dễ làm cho người ta cảm thấy khó chịu nhưng bù lại đó là mùa ngập tràn dàn nhạc của tiếng côn trùng mang đến một thứ âm thanh đặc trưng của ngày hạ, là mùa của chăn tằm lấy tơ, mùa của những cánh đồng no đầy, chín mọng.
“Tháng tư chim chím đã oi nồng,
Chim hót lùm xanh tiếng lánh trong.
Con gái chăn tằm lo gió máy,
Người nhà phơi thóc chạy cơn giông”.
(Hạ nhật vãn điếu)
Cả bầu trời hè tràn đầy ánh nắng gió như làm bừng lên cả sức sống mới căng đầy. Tất cả những hình ảnh đó được nhà thơ khắc họa một cách hết sức sinh động.
“Lúa mới ngậm đồng, càng mập mạp,
Tằm vừa đầy giấc, đã ngo ngoe.
Được hôm trời hưởng, ngõ phên che,
Lấp lánh trong mây, bóng ác lòe”.
(Hạ nhật tâm tình)
Bức tranh mùa hè trong thơ Nguyễn Khuyến cho ta cảm thấy hết sức nóng càng tăng hơn. Nhưng đằng sau đó là những hình ảnh vừa dịu ngọt, đáng yêu thân quen trong ngày hè.
Þ Cảnh mùa thu
Các nhà thơ xưa thường tìm cảm hứng trong cảnh vật Trung Hoa, như sông Xích Bích, hồ Động Đình, bến Tầm Dương, sông Tiêu Tương, bến Phong Kiều,... Nhưng trong các thi phẩm Nguyễn Khuyến tuyệt nhiên không thấy có các cảnh Trung Hoa, hay các cảnh xây dựng theo tưởng tượng, mà những cảnh quen thuộc thường ngày của nông thôn Việt Nam. Mùa thu và thi nhân vốn có nhiều duyên nợ. Trước cảnh thu không ai cảm xúc sâu sắc bằng các nhà thơ, cho nên trong các bài thơ hay kim cổ, phải kể đến các bài vịnh về mùa thu. Từ xưa, một loạt 8 bài Thu hứng của Đỗ Phủ (712-770) đã được Kim Thánh Thán liệt vào số sáu tác phẩm tài tử hay nhất đời Đường. Về sau, ở nước ta, trong các bài thơ Nôm vịnh thu, phải kể đến ba bài Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh của Nguyễn Khuyến (1835), người làng Yên Đổ (Hà Nam, Bắc phần), là những thi phẩm tuyệt tác hiện còn truyền tụng cho đến ngày nay.
Thu điếu
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Đề bài Thu điếu là mùa thu đi câu, sau cảnh sóng gợn, lá vàng bay theo gió của mùa thu, thì tâm tình của nhà thơ đã lơ lửng gửi vào các tầng mây, đã cảm thấy vắng teo qua ngõ trúc, để quay trở về đề mà than rằng "ôm cần lâu chẳng được!"
Đề bài Thu ẩm là mùa thu uống rượu, sau cảnh khói nhạt trên giậu, bóng trăng loe trên ao của mùa thu, thì tâm tình nhà thơ vấn vương theo các câu hỏi "trời, ai nhuộm mà xanh ngắt?", "mắt, ai viền mà đỏ hoe?" để quay trở về đề mà than rằng "bình thường giỏi uống rượu,mà sao nay vài chén đã say nhè!”
Thu ẩm
“Năm gian nhà nhỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm khuya đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
Rưọu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè”.
Đề bài Thu vịnh là cảm hứng trước mùa thu mà làm thơ. Sau cảnh khói phủ trên nưóc biếc, trăng xuyên qua song cửa của đêm thu, thì tâm tình nhà thơ dẫn khởi theo "hoa năm ngoái", "ngỗng nước nào?" để rồi quay trở về đề mà than rằng "toan làm thơ mà thẹn với Đào Tiềm, một thi hào xưa chán cảnh lòn cúi của quan trường, đã từ chức về vườn, làm bài Qui khứ lai từ nổi danh tuyệt tác.
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông chừng như khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào
Trong ba bài thơ trên, Nguyễn Khuyến dùng toàn những lời nói hàng ngày của thường dân Việt, không xen lẫn một danh từ Hán-Việt hay một từ, một điển tích ngoại lai nào (trừ điển tích "ông Đào" ở cuối bài Thu vịnh), và dùng nhiều từ vô nghĩa, như: lạnh lẽo, veo, tẻo teo, gợn tí, đưa vèo, lơ lửng, vắng teo (Thu điếu); le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh, ngắt, đỏ hoe, say nhè (Thu ẩm); lơ thơ, hắt hiu (Thu vịnh)...
Trong ngôn ngữ Việt, mỗi từ phải có một nghĩa, nhưng cũng có nhiều từ vô nghĩa, dạng thể đơn như: veo, ngắt, hoe..., hoặc dạng thể kép, như 2 tiếng vô nghĩa được ghép với nhau: le te, lơ thơ, hiu hắt; hoặc một tiếng vô nghĩa ghép với một tính từ tạo thành những tính từ kép như: lạnh lẽo, lạnh lùng, lạnh buốt, hay xanh rờn, xanh lè, xanh ngắt, hay trong veo, trong vắt, trong trẻo... làm cho ngữ nghĩa tiếng Việt trở nên phong phú, tinh tế hơn. Đó là một đặc thù của ngôn ngữ Việt, tưởng ít ngôn ngữ nước nào có.
Trong ngôn ngữ Việt, mỗi từ phải có một nghĩa, nhưng cũng có nhiều từ vô nghĩa, dạng thể đơn như: veo, ngắt, hoe..., hoặc dạng thể kép, như 2 tiếng vô nghĩa được ghép với nhau: le te, lơ thơ, hiu hắt; hoặc một tiếng vô nghĩa ghép với một tính từ tạo thành những tính từ kép như: lạnh lẽo, lạnh lùng, lạnh buốt, hay xanh rờn, xanh lè, xanh ngắt, hay trong veo, trong vắt, trong trẻo... làm cho ngữ nghĩa tiếng Việt trở nên phong phú, tinh tế hơn. Đó là một đặc thù của ngôn ngữ Việt, tưởng ít ngôn ngữ nước nào có.
Trong những tự tình qua các bài về mùa thu này, Nguyễn Khuyến và Đỗ Phủ đều có những tâm sự đau buồn như nhau. Nhưng nếu Nguyễn Khuyến dùng cảnh thu tượng trưng cho những nỗi niềm chán nản, tủi nhục của mình một cách xa xôi, thì Đỗ Phủ đã dùng những hình tượng trong thiên nhiên làm bối cảnh, để miêu tả rõ ràng những u uất hận trong đời ông.
Như ở hai câu thơ bất hủ trong bài Thu hứng 1:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm”.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Trong khi đó, mùa thu với nhà thơ thế hệ 30-45 thì không hề giống như vậy. Mỗi năm, khi hoa cúc nở giữa những chiếc lá vàng rơi, khi gió heo may hiu hắt dưới vầng trăng trong sáng... một số thi sĩ thế hệ 30-45, cũng cảm thấy rạo rực, cần mượn thi ca mà bộc lộ những nỗi hoài cảm riêng tư. Hoặc than khóc cho duyên kiếp dở dang như Tương Phố trong Giọt lệ thu:
“Trời thu ảm đạm một màu,
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em.
Trăng thu bóng ngã bên thềm.
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng?”
Hoặc lắng nghe hồn mình ngơ ngác, đơn cô giữa mùa thu, như Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”
Hoặc duyên dáng mơ màng như Xuân Diệu trong Đây mùa thu tới:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
… Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mong manh”.
Nhìn soát lại, về những bài thơ mùa thu, ngày xưa, Thu hứng của Đỗ Phủ là một trong sáu tác phẩm tài tử hay nhất đời Đường, bút pháp miêu tả kỳ diệu, chuyên dùng những hình tượng trong thiên nhiên làm bối cảnh trợ lực để tự tình những nỗi uất hận bình sinh của tác giả.
“Lác đác rừng phong hạt móc sa.
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm.
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà”.
( Nguyễn Công Trứ - dịch)
Ngày nay, vào thế kỷ XIX ở nước ta, các bài thơ Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh của Nguyễn Khuyến là những bài thơ chữ Nôm tuyệt tác trứ danh, được người đời truyền tụng cho đến ngày nay, tuy xây dựng theo những qui luật gò bó chặt chẽ của thơ "Đường luật", mà bao nhiêu tình ý, cảnh trí thuần chất Việt Nam đã được giao thoa một cách dung dị, uyển chuyển chưa từng thấy.
Với một bút pháp tân kỳ đặc thù phát sinh từ lòng đất mẹ, nhà thơ Yên Đổ đã Việt hóa hoàn toàn những sở đắc Hán học của mình, và chỉ với ba bài thơ nôm vịnh thu thôi, cũng đủ để gây được trong giới thức giả đương thời một niềm tin tưởng vững chắc vào khả năng diễn đạt thẩm mỹ thi ca của tiếng Việt, dọn đường cho các nhà thơ chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương sau này.
2.1.2. Cảnh thôn dã
Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở nông thôn. Quê ông là một miền đồng chiêm nghèo trũng nước. Nguyễn Khuyến sống ở quê và quan hệ thân tình với mọi ngườị Ông làm thơ tặng bạn bè, tặng anh vợ, tặng ông hàng thịt,... làm câu đối viếng người làng, viếng người thợ rèn, mừng đám cưới, mừng nhà mới,... Nguyễn Khuyến viết nhiều về con người, về thiên nhiên, cảnh vật ở nông thôn. Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những tác phẩm viết về nông thôn, nhưng hình ảnh nông thôn trong văn học nói chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thực sự đi vào văn học.
“Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa, trầu cau chẳng dám mua”
(Chốn quê)
Nỗi ám ảnh thường xuyên của người nông thôn là lo mất mùa, lụt lội:
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”.
(Chốn quê)
Hay:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”
(Nước lụt Hà Nam)
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thiên nhiên được miêu tả cũng là một thiên nhiên nông thôn rất rõ. Cảnh mùa thu trong thơ của ông không phải là mùa thu ở miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Ta có thể nhận thấy điều ấy qua cái màu "xanh ngắt" của bầu trời, đến cái nước "trong veo" của ao cá; hay từ cái "Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe". Và cũng phải đến Nguyễn Khuyến, trong thơ Việt Nam mới có những buổi trưa đặc biệt nông thôn như.
“Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây”
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Viết về nông thôn với những tình cảm đằm thắm như thế, không phải trước mà sau Nguyễn Khuyến cũng hiếm có người nào viết được như ông. Nông thôn Việt Nam trong thơ Yên Đổ hiện lên với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kỳ. Một tiếng trẻ bi bô học bài, tiếng ếch kêu vang rền như tiếng trống của trẻ nhỏ, tiếng chim ríu rít trên cành tre, một đêm trăng trữ tình, một con “trâu già cọ gốc phì hơi nắng”. Đó còn là âm thanh và màu sắc của những ngày hội, ngày xuân, đêm hè:
“Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang”
“Trước lũy nhấp nhô cò cụ Tổng
Cách ao lẹt đẹt pháo thày Nhang”
(Khai bút)
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”
(Thu ẩm)
Đó cũng là nông thôn với cảnh đời lam lũ, cái lo toan tất bật của công việc đồng áng, vị chua mặn của giọt mồ hôi vất vả, cảnh lụt lội nước ngập trắng đồng
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà”
(Vịnh lụt)
Trong một khung cảnh như vậy, hình ảnh người dân quê nhiều lúc hiện lên hết sức chân thực và sinh động. Đó đều là những hình ảnh bình thường nên thơ và trở thành điển hình trong thơ Nguyễn Khuyến. Tất cả lần đầu tiên đã đi vào văn học dân tộc không phải một cách “dần dần”, “từ từ”, “từng bước” mà ào ạt thấm đẫm trong thơ của ông già Yên Đổ. Nhà thơ cũng lo cái lo của người dân, sống cuộc sống bần hàn chạy ăn từng bữa, đo đếm cân đong từng xu như họ.
"Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”
(Nhà nông than thở)
Cách hàng mấy chục năm, trước khi Ngô Tất Tố viết Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan viết Bước đường cùng, ta đã được biết đến một nông thôn Việt Nam đói nghèo với cảnh mất mùa năm này qua năm khác, cảnh công xá bèo bọt, cảnh thuế má quan lệ thúc đòi, cảnh nợ nần với người cùng khổ “lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi”, cảnh “sâu hạn liên miên úng lụt tràn ”, v.v. trong thơ Nguyễn Khuyến.
Sự gần gũi với cuộc sống bình thường, sự xa vời với phương thức phản ánh cũ nặng về ước lệ tượng trưng, sự chối bỏ những chủ đề trung quân, ca ngợi “địa linh nhân kiệt” chung chung, việc tiếp cận với những đề tài cuộc sống của người dân với nỗi lo toan hàng ngày của họ... đã khiến cho thơ văn Nguyễn Khuyến có phần tách rời khỏi truyền thống và hết sức gần gũi với thơ ca hiện đại. Có thể nói rằng đó là những gạch nối đầu tiên giữa văn học trung đại và văn học hiện đại. Có lẽ bản thân Nguyễn Khuyến cũng chưa ý thức được điều đó, nhưng chính những bài thơ xuất chúng của ông lại chứa đựng sự tiếp nối này.
Chính sự hòa mình vào cuộc sống hồn nhiên nơi thôn dã đã giúp cho nhà thơ giải tỏa được tâm trạng luôn day dứt đau khổ và mặc cảm của mình. Nguyễn Khuyến đã tìm thấy trong thiên nhiên, trong cuộc sống lam lũ của người nông dân quê ông sự thanh thản của tâm hồn, niềm lạc quan yêu đời và những tình cảm xóm làng trong sáng. Và đằng sau những bài thơ có vẻ như hiền lành của ông luôn chứa giấu một nỗi niềm nóng bỏng về vận mệnh của đất nước về cuộc sống của dân lành.
2.1.3. Danh lam thắng cảnh
Khảo sát thơ Nguyễn Khuyến viết về thiên nhiên, ta sẽ thấy một số lượng không nhỏ các tác phẩm viết về những danh thắng cảnh như cảnh chùa chiền, núi non…Đó là những thắng cảnh góp phần quan trọng trong việc bộc lộ sắc nét vẻ đẹp thiên nhiên.
Bên cạnh việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên nơi thôn dã, Nguyễn Khuyến còn miêu tả lại vẻ đẹp của những danh lam thắng cảnh mà nhà thơ đã từng đặt chân đến. Nào là núi Tam Điệp, núi Dục Thúy, núi An Lão, núi Ngũ Hành, rồi cảnh chùa Đọi, chợ trời Hương Tích, đền trên núi Dạ, sông Thạch Hãn…
Những bức tranh thiên nhiên được nhà thơ thể hiện lúc này không còn bó hẹp trong phạm vi thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, Hà Nam nữa mà đã mở rộng ra phạm vi danh lam thắng cảnh của đất nước. Mỗi tên núi, tên sông, tên chùa đều được Nguyễn Khuyến miêu tả theo cách riêng. Nhưng qua cái nhìn của nhà thơ, ta thấy từ sự quan sát thực tế đến khi đưa vào trong thơ, Nguyễn Khuyến đã có sự lựa chọn và quan sát rất tinh tế. Chẳng hạn trong bài Vịnh núi An Lão.
“Mặt nước mênh mông nổi một hòn,
Núi già nhưng tiếng vẫn còn non,
Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn.
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn nhà trông xuống bé con con,
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!”
(Vịnh núi An Lão)
Không chỉ làm hiện lên phong cảnh trước mắt nhà thơ mà còn hiện lên tư thế, và vị thế của ông. Cụ Tam Nguyên lúc này đang chống gậy đứng trên núi nhìn xuống, quan sát cảnh vật một cách tổng thể. Ta có thể hình dung được lúc nhà thơ đứng trên núi nhìn xuống thì sẽ thấy cái gì cũng bé nhỏ hẳn đi. Và lúc này phải chăng chính người ngắm cảnh cũng trở nên nhỏ bé, cô đơn trước phong cảnh bao la hùng vĩ của quê hương đất nước. Những từ láy “xa thăm thẳm”, “bé con con” vừa chính xác lại vừa mang tính gợi hình ảnh cao. Ta thấy đằng sau những từ ngữ ấy còn là sự phát hiện mang tính hứng thú của nhà thơ. Có đi xa, có tận mắt chứng kiến thì nhà thơ mới thấy được những hình ảnh bất ngờ và sinh động đến như vậy.
Hay ở bài thơ Núi Tam Điệp ta sẽ bắt gặp cái nhìn đầy phóng khoáng của nhà thơ.
“Phóng mắt đầu non Tam Điệp rõ,
Ngoảnh đầu dòng nước Cửu Long xa.
Xanh pha sườn núi màu cây lẫn,
Trắng lộn chân mây mặt bể mờ.
Những muốn ăn thề cùng suối đá,
Biết đâu suối đá có tin mà”.
( Núi Tam Điệp)
Một bên là núi, một bên là biển lại có màu xanh của cây và màu mây trắng mờ ảo tạo nên một cảnh vừa hùng vĩ lại vừa nên thơ. Tầm nhìn tinh tế của nhà thơ đồng thời cũng thể hiện tấm lòng yêu quý cảnh thiên nhiên, đất nước. Cách nhà thơ ngắm cảnh cũng chứng tỏ ông rất yêu cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước nên mới dùng thơ để ghi lại niềm xúc cảm của mình và những gì mình mắt thấy tai nghe.
“Chim chiều đôi tiếng véo von,
Tình xưa gởi lại nước non bóng tà”.
Tiếng lòng của nhà thơ tưởng như đang hòa cùng cảnh sắc quê hương đất nước. Tấm lòng ấy thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.
Đọc những bài thơ vịnh danh lam thắng cảnh của Nguyễn Khuyến ta bỗng nhận ra nhà thơ là một người rất say mê những cảnh đẹp của đất nước, ông đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ và làm nhiều bài thơ để vẽ lại phong cảnh và con người nơi đó:
Ai đi Hương Tích chợ trời đi !
Chợ họp quanh năm cả bốn thì.
Đổi chác người tiên cùng khách bụt.
Bán buôn gió chị lại trăng dì.
Yến anh chào khách nhà mây tỏa,
Hoa quả bài hàng điếp cỏ che.
Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ.
Bán mua mặc ý muốn chi chi.
(Chơi chợ trời Hương Tích)
Bài thơ miêu tả cảnh buôn bán tấp nập, nhộn nhịp của chợ trời Hương Tích, sự phong phú của hàng hóa nơi đây cũng như có nhiều người tập hợp buôn bán. Khung cảnh của buổi chợ khiến cho người đọc cảm thấy thú vị với tài quan sát của nhà thơ Yên Đổ, những tưởng ông chỉ quen với việc miêu tả những người nông dân chân lấm tay bùn thế mà khi miêu tả cảnh tấp nập buôn bán, Nguyễn Khuyễn vẫn bộc lộ nét duyên riêng trong miêu tả phong cảnh và sinh hoạt của con người trong cảnh.
Nếu cảnh chợ búa đông đúc, vui vẻ thì cảnh chùa Đọi lại hiện ra ở một không gian khác hẳn, thật giản dị, mà vô cùng thanh tao, thoáng đãng.
“Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây ?
Chuông trưa vẳng tiếng người không hiểu,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây”.
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Không gian là nơi chùa chiền thanh tĩnh, lánh trần thoát tục, chỉ có tiếng chuông trưa vẳng lại khiến tâm hồn con người như được thanh lọc khỏi những ồn ào náo nhiệt của trần thế. Bài thơ này được tác giả dịch từ bài thơ chữ Hán Ức Long Đọi Sơn tức là Nhớ cảnh chùa Đọi, chứng tỏ nhà thơ đã đến viếng thăm nơi này sau đó vẫn lưu luyến với cảnh vật mà cảm tác viết lên bài thơ này.
Sau khi khảo sát những bài thơ viết về những danh lam, thắng cảnh, đất nước của Nguyễn Khuyến ta thấy nhà thơ đã gắn liền với mọi nơi mà mình đã đặt chân đến. Mỗi địa danh của đất nước đã để lại trong lòng nhà thơ những cảm xúc rất khác nhau nhưng nhìn chung qua mỗi dòng thơ ông đã viết đều chứa đựng tình cảm sâu sắc, tha thiết đối với những địa danh của đất nước.
2.2. Bức tranh tâm trạng
2.2.1. Tâm trạng say sưa chan hòa với thiên nhiên
Mặc dù mang nỗi đau đời lớn lao trong lòng, nhưng Nguyễn Khuyến đã vượt được ra ngoài tâm trạng u ám của một nhân vật bi kịch. Thực vậy, Nguyễn Khuyến là con người tuyệt vời đã biết tìm và biết hưởng thụ niềm vui chân chính của cuộc sống. Thơ ông, bên cạnh cái cười thâm thúy, còn là bài ca về cuộc sống tươi đẹp, cuộc sống tuy có những đau khổ không cùng nhưng vẫn "không đáng chán".
Cái nhìn của Nguyễn Khuyến trước thiên nhiên là cái nhìn của một tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp của non sông, đất nước. Ông đã vẽ nên những bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp với cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng… Những bức tranh ấy vừa tinh tế lại vừa có hồn.
“Mắt thu tám mặt xóm làng quanh,
Chót vót non cao đứng một mình.
Gió nhẹ bóng trăng vờn khói bạc,
Mù quang chuôi đẩu gác mây xanh.
Một trời cảnh vật vàng tô vẽ,
Bốn mặt giang sơn ngọc chuốt hình.
Hòa với tiếng thu, sương thánh thót,
Âu Dương phú ấy gợi bao tình”.
(Đêm thu đứng trên núi trông)
Nếu trong bài thơ Thu điếu mùa thu chỉ được nhà thơ thu hẹp trong không gian của một chiếc “ao thu lạnh lẽo” thì ở đây lại là khung cảnh bao la, hùng vĩ của đất trời vào một đêm thu. Nhà thơ mở rộng tâm hồn mình ra để đón nhận niềm giao cảm với đất trời. Thiên nhiên với đầy đủ gió, trăng, sương, khói, mây, lại còn có núi non và xóm làng bên dưới. Tư thế của người ngắm cảnh như đang vượt lên trên đỉnh núi chót vót, tưởng chừng có thể chạm được vào mặt trăng và sờ thấy đám mây xanh trước mắt. Lúc này tâm hồn nhà thơ đang giao hòa cùng với thiên nhiên của đêm thu, trời thu, trăng thu.
Nguyễn Khuyến không nhìn thiên nhiên như một người ngắm cảnh bình thường mà bằng cái nhìn thẩm mĩ, đầy tinh tế của một thi nhân với phong thái ung dung, nhàn tản.
“Ngũ Hành rực rỡ, ngất tầng cao,
Mặt biển non tiên chẳng khác nào.
Thỏ mọc ác tà vòng trước động,
Cồn dâng sóng vỗ rộn lưng đèo.
Trời quang, vách dầm hơi nước,
Đêm vắng, hồi chuông rớt ngọn triều.
Ngắm cảnh non sông kỳ tuyệt ấy,
Nợ trời bỗng chốc chẳng còn đeo”.
(Lên núi Ngũ Hành lưu đề)
Núi Ngũ Hành là một trong những địa danh nổi tiếng của nước ta với phong cảnh núi non hữu tình, hùng vĩ. Nhưng để miêu tả toàn bộ phong cảnh thiên nhiên nơi đó thì thật không dễ chút nào. Và Nguyễn Khuyến đã làm được điều này một cách thật tài tình. Ông không chỉ ngắm cảnh mà còn vẽ lại phong cảnh ấy bằng một bức tranh thơ tuyệt đẹp. Khung cảnh thiên nhiên thật bao la rộng lớn với những ngọn núi cao ngất trời, sóng vỗ rộn lưng đèo, vách dầm hơi nước lại còn có tiếng chuông chùa rớt trong đêm vắng. Và bản thân nhà thơ bỗng nhận ra rằng “Ngắm cảnh non sông kỳ tuyệt ấy, Nợ trời bỗng chốc chẳng còn đeo”.
Không chỉ giao hòa tâm hồn với những phong cảnh hùng vĩ của non sông, đất nước, Nguyễn Khuyến còn là một nhà thơ gần gũi với làng quê Việt Nam, một tâm hồn thơ tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. Ông đã xem thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỉ, sống chan hòa với thiên nhiên và gần gũi với cảnh sắc thôn dã bằng tất cả tâm tình. Qua nhiều bài thơ của Nguyễn Khuyến, ta thấy ông đã mở rộng lòng mình ra để thưởng thức thiên nhiên bằng tất cả các giác quan.
“Gió đâu lọt chốn thư phòng,
Bên song hây hẩy, giấc nồng vừa tan.
Ống tay thoang thoảng mùi lan,
Chén trà lóng lánh ánh lên mái hồi.
Cóc vồ con kiến tha mồi,
Chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve.
Mảnh vườn cũng lắm thú ghê,
Ghế bên ngồi nghỉ tỉ tê một mình”.
(Vườn nhỏ)
Một bài thơ vô cùng giản dị, không hề có sự trau chuốt về mặt ngôn từ nhưng vẫn tạo nên một cảm giác thật thanh tao, thoáng đãng. Như có một cơn gió nhẹ thổi qua tâm hồn nhà thơ, khiến ông nhận ra những cảnh vật quen thuộc bên cạnh mình bỗng trở nên thật đẹp, thật có hồn và căng tràn sức sống. Trong cơn gió nhẹ hây hẩy của buổi tinh mơ, mùi lan thoang thoảng vương trên ống tay áo tạo nên một cảm giác thanh khiết, dễ chịu. Trong không gian ấy nhà thơ chậm rãi nhấm nháp chén trà và thú vị phát hiện ra luồng ánh sáng rọi vào chén trà và phản chiếu lên mái hồi lóng lánh. Chỉ là một chi tiết nhỏ tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại được nhà thơ miêu tả rất thực. Cùng với tâm hồn ung dung, thư thái ấy là một cái nhìn thật hóm hỉnh, yêu đời trước cảnh
“Cóc vồ con kiến tha mồi,
Chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve”.
Những sinh vật vốn dĩ tầm thường như thế lại làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sống động, vui tươi, tràn đầy sức sống. Những hình ảnh đời thường như thế chỉ có một tâm hồn dạt dào cảm xúc như Nguyễn Khuyến mới có thể phát hiện và phản ánh vào bức tranh thơ của mình. Đằng sau những hình ảnh thú vị ấy là tâm tình của nhà thơ.
Mảnh vườn cũng lắm thú ghê,
Ghế bên ngồi nghỉ tỉ tê một mình”.
Nguyễn Khuyến không chỉ quan sát thiên nhiên bằng thị giác và khướu giác mà còn bằng cả thính giác. Thiên nhiên trong thơ ông còn có những âm thanh rất vui nhộn của tiếng dế, tiếng đàn muỗi bay, tiếng trống ình ịch, tiếng pháo lẹt đẹt, tiếng ếch, tiếng gà gáy sáng, tiếng chim chích chòe vv …
“Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe
Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
… Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà từng gáy sáng tẻ tè te”.
(Về hay ở)
Những âm thanh vừa gần gũi với đời thường lại vừa vui tai, hóm hỉnh. Tất cả những âm thanh ấy chứng tỏ Nguyễn Khuyến không chỉ có khả năng quan sát mà còn có khả năng lắng nghe những âm thanh của cuộc sống chung quanh mình mà nhất là cuộc sống làng quê. Nhà thơ không chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe những âm thanh của cuộc sống mà còn lắng đọng tâm hồn mình trước những khung cảnh thôn quê gần gũi, mộc mạc. Ông hóa thân vào thiên nhiên, vừa chan hòa vừa say sưa. Trước cảnh đẹp của thiên nhiên, nhà thơ như quên đi mọi vất vả mệt nhọc đời thường.
2.2.2. Tâm trạng ưu tư, day dứt trước thiên nhiên
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ “trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
Sống giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nước rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Những ngày ở ẩn tại quê hương là những ngày tháng nhà thơ sống rất gần gũi, chan hòa với thiên nhiên. Nhưng có nhiều lúc ta bắt gặp bên cạnh những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống của ông là những bức tranh tâm trạng chất chứa cả một nỗi niềm ưu tư, day dứt.
“Hè này nóng khổ quá,
Cỏ khô, đầm cạn cả.
Lại thêm ngọn gió tây,
Vật gì chẳng tàn tạ.
…Than ôi! Khổ trăm chiều!
Sao lại còn nghiệt ngã?”
(Mùa hè năm Nhâm Dần)
Nỗi niềm ưu tư, day dứt được Nguyễn Khuyến bộc lộ qua khung cảnh thiên nhiên tàn tạ vì cái nóng và nắng hạn của mùa hè và qua lời than thở của nhà thơ. Thiên nhiên không phải lúc nào cũng tươi đẹp mà có lúc cũng rất tàn bạo, nghiệt ngã khiến cho con người phải khổ sở. Lời than của Nguyễn Khuyến thể hiện một nỗi niềm đồng cảm với người nông dân trước cảnh hạn hán của mùa hè năm Nhâm Dần.
Có thể nói, không gian bốn mùa trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ có tác dụng tả cảnh một cách đơn thuần mà đó còn là cách kín đáo để nhà thơ bộc lộ tâm sự yêu nước của mình. Nguyễn Khuyến rất riêng tư nhưng nhìn chung vẫn nằm trong phạm vi của thi ca trung đại: tả cảnh ngụ tình, tỏ chí một cách kín đáo trong những uẩn ức tâm trạng.
Tâm tình với đất nước, quê hương qua cảnh thu đã được gửi gắm trọn vẹn, tạo cảm xúc đồng điệu của kẻ sĩ thời đại và làm rung động bao thế hệ. Cảm xúc của Nguyễn Khuyến trong chùm thơ thu đều bắt nguồn từ cảnh vật, Thu vịnh đem đến những nét thu tiêu biểu: trời thu, cần trúc, nước biếc, bóng trăng, hoa năm ngoái, tiếng ngỗng; Thu điếu là những cảm xúc bắt nguồn từ mặt ao thu lạnh lẽo nước trong veo; Thu ẩm là mùa thu nông thôn điển hình với nhà cỏ, ngõ tối, đom đóm, lưng giậu, làn ao… Cảnh thu – tình thu trong ba bài thơ có sự phân bố đậm nhạt khác nhau: Thu vịnh thiên về cảnh, Thu ẩm nghiêng về tâm trạng, còn Thu điếu là sự đan xen cảnh – tình mùa thu hài hoà nhất. Ba bài thơ gắn với chủ thể trữ tình là nhà nho Nguyễn Khuyến bất lực trước thực trạng đất nước, với nỗi niềm kín đáo lan toả trong từng bài: nhân hứng nhưng thẹn với ông Đào đành cất bút (Thu vịnh), câu cá mà giật mình “cá đâu đớp động dưới chân bèo” (Thu điếu), uống rượu thì say nhè (Thu ẩm). Đằng sau bức tranh thu buồn bã, rõ ràng có một nỗi uất ức thời cuộc hiện hình trong nhân vật trữ tình.
“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá, cũng là một tâm thế nhàn, thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động”, gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp nên đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ấn. Đang ôm cần câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ như đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy: buồn cô đơn và trống vắng. Chính trong không gian thu, khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng thi sĩ được hiện lên một cách rõ nét nhất với nghệ thuật gợi, chấm phá qua hình ảnh của trời thu.
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu vịnh)
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
(Thu điếu)
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
(Thu ẩm)
Cái trong veo của nước: Nước biếc trông như tầng khói phủ (Thu vịnh); Ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Thu điếu); rồi lá vàng, tiếng ngỗng kêu, cần trúc lơ phơ cùng tâm sự thời thế của thi nhân khi cảm thấy mình bất lực trước cuộc đời đã tạo nên bức tranh thu thiên nhiên và bức tranh thu của lòng người mang những nỗi niềm sâu kín. Với Nguyễn Khuyến, mùa thu là đề tài bất tận mà ở trong đó tác giả có thể trải lòng mình với tạo vật xung quanh.
Có thể nói, không gian thu là cả một bức tranh vừa trong trẻo, xao xuyến, lặng buồn, vừa huyền ảo vừa thoáng đãng, vừa như mang bao niềm hoài niệm, vừa chứa đựng nỗi bâng khuâng… hiện hình rõ nét dần qua từng câu thơ điểm cảnh của Nguyễn Khuyến.
Trong những cơn hoạn nạn: thiên tai địa ách, đói rét, ngoại xâm... giọng thơ của ông trở nên bi thiết trước số phận của cộng đồng mà ông là một thành viên không tách rời:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
Gạo dăm ba bát cơ còn kém
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi...
Đi đâu cũng thấy người ta nói
Mười chín năm nay lại cát bồi!”
(Lụt Hà Nam)
Đó cũng là nông thôn với cảnh đời lam lũ, cái lo toan tất bật của công việc đồng áng, vị chua mặn của giọt mồ hôi vất vả, cảnh lụt lội nước ngập trắng đồng. Khung cảnh thiên nhiên nói lên một sự chán nản thất vọng trước một tai họa khủng khiếp không làm sao ngăn cản được. Và điều đó có ý nghĩa tố cáo sự bất lực, hay đúng hơn sự bỏ rơi dân chúng của bọn thống trị thời bấy giờ.
Trước thảm cảnh của người dân, hơn ai hết, Nguyễn Khuyến ý thức được trách nhiệm của mình đối với sự tồn vong của đất nước. Vì thế, tâm trạng của ông lúc nào cũng ưu tư, khi đứng trước thiên nhiên.
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”.
(Cuốc kêu cảm hứng)
Nhà thơ đã mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết, khắc khoải của mình. Sống trên đất nước mà vẫn nhớ về đất nước, nhớ về những ngày tháng thanh bình của dân tộc. Bài thơ Cuốc kêu cảm hứng như một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.
Ông không phải là anh hùng dân tộc như Nguyễn Trãi, nỗi niềm của ông có điểm gần với Nguyễn Du: đều phải làm những việc miễn cưỡng, đều có những nỗi dằn vặt có lẽ không tiện nói ra và đều mong hậu thế hiểu cho lòng mình, cho nỗi khó xử của mình. Đó là những nhân cách lớn của lịch sử. Họ là những người mang ơn sâu nặng chế độ xã hội đã đào tạo và tôn vinh mình và đến khi đạt đến đỉnh cao của vinh quang cũng là lúc họ chợt nhận ra mặt trái đen tối của xã hội mà mình nguyện đem hết sức mình ra phụng sự, tôn thờ. Đó là một xã hội đang suy thoái, đày đọa con người (thời Nguyễn Du); cũng vẫn xã hội đó nhưng đến lúc đã hết thời, hết vai trò lịch sử và đi ngược lại lòng dân, đi ngược lại quyền lợi dân tộc (thời Nguyễn Khuyến). Không phải người tri thức nào trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra được bộ mặt thật của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước lịch sử.
Chương 3
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG THƠ VĂN
NGUYỄN KHUYẾN
Có thể nói, về mặt nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Khuyến được xem là một nhà thơ bậc nhất của văn học Việt Nam. Thơ ông mang một hình thức trong trẻo, đẹp đẽ và hiếm có. Nó được thể hiên ở bút pháp tả thực, giàu hình ảnh, và việc sử dụng chất liệu rất đỗi bình dị và đời thường. Nhà thơ đã đưa vào thơ những hình ảnh rất gần gũi và giản dị gắn liền với cuộc sống con người. Tất cả được kết tinh lại tạo thành giá trị nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn Khuyến.
3.1. Bút pháp tả thực
Nếu như thiên nhiên trong văn học trung đại chủ yếu được các tác giả thể hiện bằng bút pháp ước lệ tượng trưng thì Nguyễn Khuyến lại sử dụng chủ yếu là bút pháp tả thực để miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong văn học trung đại thường hiện lên trước mắt chúng ta là những khuôn mẫu “bất di bất dịch”. Nói đến mùa đông thì nhất định phải có tuyết rơi, mùa xuân thì nhất định sẽ hiện lên hình ảnh của hoa mai nở rộ, … Nhưng đến với thơ văn Nguyễn Khuyến thì ông không còn bị ảnh hưởng nhiều vào những khuôn mẫu định sẵn đó. Cũng là mùa thu, mùa hạ, mùa xuân nhưng đó là cảnh sắc bốn mùa trên chính đất nước Việt Nam mà chúng ta không thể nhầm lẫn vào đâu được.
Không chỉ sử dụng bút pháp tả thực trong việc miêu tả thiên nhiên mà Nguyễn Khuyến còn sử dụng bút pháp này trong việc miêu tả hình ảnh con người trong cảnh thiên nhiên đó. Những hình ảnh, màu sắc, âm thanh mà ông đưa vào bức tranh bằng thơ của mình đều xuất phát từ sự quan sát nhạy cảm, tinh tế chứ không hề dựa trên những nguyên tắc cổ điển trong việc miêu tả thiên nhiên và con người trong đó. Chẳng hạn, âm thanh của ngày tết, tiếng người cười nói hay tiếng trẻ con bi bô, thậm chí là tiếng côn trùng vào mùa hè hoặc tiếng thở của những con trâu trong buổi trưa hè đều được Nguyễn Khuyến tái hiện lại rất sinh động. Từ việc sử dụng bút pháp tả thực như thế ta thấy bức tranh thiên nhiên mà Nguyễn Khuyến miêu tả không chỉ đẹp mà còn rất thực:
“Gió đâu lọt chốn thư phòng,
Bên song hây hẩy, giấc nồng vừa tan.
Ống tay thoang thoảng mùi lan,
Chén trà long lánh ánh lên mái hồi.
Cóc vồ con kiến tha mồi,
Chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve.
Mảnh vườn cũng lắm thú ghê,
Ghế bên ngồi nghĩ tỉ tê một mình.”
(Vườn nhỏ)
Những điều mà Nguyễn Khuyến miêu tả trong bức tranh thiên nhiên này là những gì nhà thơ mắt thấy, tai nghe. Bản thân nhà thơ đang say sưa ngắm mảnh vườn nhỏ của mình và vẽ lại nó bằng chất liệu thơ và bằng bút pháp tả thực. Cảnh “cóc vồ con kiến tha mồi” hay cảnh “chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve” là những hình ảnh có được từ sự quan sát của nhà thơ chứ không phải là sự tưởng tượng và cũng không hề bị ảnh hưởng của bút pháp ước lệ tượng trưng.
Ngay cả những cảnh sinh hoạt ngày tết cũng được Nguyễn Khuyến miêu tả bằng bút pháp tả thực.
“Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt”
(Cảnh tết)
Cảnh tết là một trong những nét đẹp văn hóa gắn liền với truyền thống của dân tộc. Chỉ cần đọc qua ta cũng nhận ra hình ảnh quen thuộc này đã gắn liền với ngày tết của người Việt Nam.
Bức tranh thiên nhiên mà Nguyễn Khuyến miêu tả không chỉ là hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Ngay cả những âm thanh mà ông miêu tả cũng là âm thanh của đời sống thực.
“Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả;
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả”.
(Than mùa hè)
Nguyễn Khuyến không chỉ tả thực những cảnh đẹp của làng quê Việt Nam mà ông còn đưa những cảnh thực về cuộc sống vất vả của người nông dân. Những nạn lụt, hạn hán mà người nông dân phải thường xuyên gánh chịu cũng được ông miêu tả rất chi tiết. Và thiên nhiên lúc này hiện ra cũng những nỗi khổ của người nông dân trên quê hương Nguyễn Khuyến:
“Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.
Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi”
(Nước lụt Hà Nam)
Cảnh thiên nhiên ở đây được đặt trong bối cảnh của trận lụt Hà Nam. Lúc này thiên nhiên gắn liền với nỗi khổ của người nông dân. Đó là những cảnh thực, rất thực của vùng quê mùa lũ. Không gian như thêm rộng ra và lạnh lẽo với tiếng sáo và chiếc thuyền len lỏi dưới bóng trăng. Không hề có bóng dáng con người ở đây. Câu thơ mang đậm chất thực mà cũng mang một ý nghĩa sâu sắc. Thiên nhiên có lúc bao dung, hào phóng với con người nhưng cũng có lúc lạnh lùng, tàn nhẫn với con người.
3.2. Nghệ thuật tạo dựng hình ảnh
Trong thơ Nguyễn Khuyến những hình ảnh thiên nhiên xuất hiện với tầng số rất cao. Từ hình ảnh của trời, mây, sông, núi… đến những chi tiết rất nhỏ như một chiếc lá, một cành trúc, một chiếc thuyền câu…đều được Nguyễn Khuyến thâu tóm vào bức tranh thơ của mình. Có thể nói, nghệ thuật tạo dựng hình ảnh trong thơ Nguyễn Khuyến là vô cùng đặc sắc. Ở mỗi bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến ta thấy mỗi hình ảnh đều được nhà thơ phát hiện và tô vẽ lại bằng tay nghề của một người họa sĩ bậc thầy. Những hình ảnh miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Khuyến thường rất đơn sơ, giản dị chứ không hề cầu kì, trau chuốt mà vẫn thể hiện được cái hồn của bức tranh phong cảnh. Hình ảnh một cần trúc bé nhỏ thanh thoát hiện lên trên nền trời thu xanh ngắt gợi lên cảm giác về một bầu trời thu rất thoáng đãng nhìn từ xa đến gần.:
“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”.
(Thu vịnh)
Hình ảnh của một cần trúc nhỏ bơ vơ, lạc lõng giữa trời thu xanh ngắt như một điểm nhấn trên nền trời. Một hình ảnh vốn bình thường đến thế mà khi đi vào thơ Nguyễn Khuyến lại trở nên có hồn và rất mực nên thơ.
Trong thơ Nguyễn Khuyến đôi chỗ xuất hiện những chi tiết rất bình dị nhưng vô cùng sống động. Nguyễn Khuyến không chỉ miêu tả thiên nhiên bằng những hình ảnh đơn thuần mà ông còn chú ý thể hiện cảnh vật trong sự vận động không ngừng của nó. Chính điều này giúp cho những vần thơ miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Khuyến chuyển tải được cái hồn của cảnh vật một cách thần tình:
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà”.
(Vịnh nước lụt)
Nguyễn Khuyến đã có sự chọn lựa chi tiết rất thần tình để miêu tả cảnh vật. Nhà thơ không miêu tả hình ảnh của một chiếc thuyền cụ thể mà ông tái hiện lại “Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách”. Hình ảnh tưởng chừng mơ hồ không có thực nhưng nó lại chính là thực tại cảnh lụt lội nơi vùng chiêm trũng Bắc Bộ. Những từ láy “thấp thoáng” và “long bong” làm hiện lên hình ảnh những chiếc thuyền và những con sóng trong những ngày ngập lụt. Cách chọn từ ngữ chính xác đã làm hiện ra những hình ảnh thực, rất thực về nỗi khổ của người nông dân trong nạn lụt.
Những cảnh vật thiên nhiên mà Nguyễn Khuyến chọn lựa và đưa vào bức tranh thơ của mình đều mang những hình ảnh, đường nét rất đặc sắc. Những hình ảnh ấy có lúc bao quát cả một khung cảnh thiên nhiên rộng lớn có khi lại chỉ là một chi tiết nhỏ tưởng chừng rất đỗi tầm thường. Chẳng hạn ở bài thơ Lên núi Ngũ Hành lưu đề Ta thấy Nguyễn Khuyến đã chọn lựa toàn những hình ảnh hùng vĩ của thắng cảnh núi Ngũ Hành. Và chỉ bằng một bài thơ thất ngôn bát cú mà nhà thơ lại phác họa rất thành công cảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi này.
“Ngũ Hành rực rỡ ngất tầng cao,
Mặt biển non tiên chẳng khác nào.
Thỏ mọc ác tà vòng trước động,
Cồn dâng sóng vỗ rộn lưng đèo.
Trời quang, vách đá dầm hơi nước,
Đêm vắng, hồi chuông rớt ngọn triều”.
(Lên núi Ngũ Hành lưu đề)
Đặc biệt, đến với những bài thơ miêu tả cảnh thôn quê của Nguyễn Khuyến ta lại bắt gặp những hình ảnh trái ngược hẳn, rất bình dị và vô cùng dân dã. Ngôn ngữ tả cảnh của Nguyễn Khuyến lúc này rất chính xác, tài tình. Chính cách chọn chữ, dùng từ thích hợp và giàu nhạc điệu đã làm cho câu thơ tả cảnh có một sức gợi mở và miêu tả rất cao.
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
(Thu ẩm)
“Gian nhà cỏ”, “ngõ tối”, “lưng giậu”, “làn ao” đều là những hình ảnh vô cùng quen thuộc với đời sống nông thôn. Mỗi khung cảnh ấy lại được Nguyễn Khuyến miêu tả bằng một từ láy rất chính xác và giàu hình ảnh. Những từ láy “le te”, “lập lòe”, “phất phơ”, “lóng lánh” đã làm cho bức tranh thêm giàu hình ảnh, giàu sức gợi và làm tăng thêm tính nhạc của bài thơ.
Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Khuyến xuất hiện ở nhiều góc độ khác nhau, từ gần đến xa đôi lúc lại được nhìn từ xa lại gần, thể hiện cái nhìn vừa bao quát lại vừa chi tiết của nhà thơ trước phong cảnh thiên nhiên. Có thể nói, chỉ có một tâm hồn hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên mới nhìn thấy và phát hiện những chi tiết rất có hồn đến như vậy:
“Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn làng trông xuống bé con con”
(Vịnh núi An Lão)
Nhà thơ đang tái hiện lại những gì mà mình đang nhìn thấy nhưng ông đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh rất thú vị. Nguyễn Khuyến đang đứng trên núi An Lão nhìn xuống và những ngôi làng mà ông nhìn thấy phía dưới đều trở nên “xa thăm thẳm” và “bé con con”. Nhà thơ miêu tả một khung cảnh rất bình thường nhưng qua sự chọn lựa từ ngữ thích hợp và tinh tế ta lại thấy một không gian bao la, thoáng đãng làm cho phong cảnh trở nên rất nên thơ và trữ tình.
Như vậy, nghệ thuật tạo dựng hình ảnh đã góp một phần không nhỏ trong việc làm nên thành công cho những bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến. Nhà thơ đã vẽ nên những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp từ sự quan sát tinh tế của một người nghệ sĩ. Những hình ảnh thiên nhiên đều mang đường nét, màu sắc riêng nhưng tất cả đều rất hài hòa và đáng yêu. Nét đặc sắc trong nghệ thuật tạo dựng hình ảnh của Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ đã có sự kết hợp tài tình giữa sự chọn lựa những hình ảnh vừa tinh tế lại vừa giản dị, vừa rất mực gần gũi mà lại vô cùng có hồn.
3.3. Chất liệu đời thường
Những gì mà Nguyễn Khuyến thể hiện trong bức tranh thiên nhiên của ông thường không xa lạ với đời sống sinh hoạt ở nông thôn mà lại vô cùng gần gũi thân thiết. Hình ảnh ông lão đánh giậm, bà hàng nước, vải chín,cá tươi cũng được Nguyễn Khuyến đưa vào thơ một cách đầy trân trọng và yêu mến. Nhà thơ Nguyễn Khuyến như một ông lão đáng kính đang quan sát mọi sinh hoạt với cái nhìn vô cùng trìu mến, thiết tha đối với con người và cảnh thôn quê nơi mình sinh sống:
“Vải chín, bà hàng bưng quả biếu,
Cá tươi, lão giậm nhắc nơm chào”
(Ngày hè)
Không chỉ có thế, những chi tiết tưởng chùng rất nhỏ nhặt nhưng khi đi vào thơ Nguyễn Khuyến lại trở thành nét duyên cho bức tranh phong cảnh của ông:
“Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa”
(Vịnh mùa hè)
Những chất liệu đời thường thường ít xuất hiện trong thơ văn trung đại thì giờ đây lại xuất hiện hàng loạt trong thơ văn Nguyễn Khuyến. Như là một sự tiếp nối, kế thừa của Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ ông những chất liệu đời thường mà ông gần gũi hằng ngày. Có thể thấy mỗi chi tiết đời thường mà Nguyễn Khuyến đưa vào thơ, ông đều rất trân trọng và yêu mến. Ông quan sát hiện thực đời sống bằng cái nhìn của một nhà nho thiết tha yêu cuộc sống và gắn bó máu thịt với quê hương, đất nước.
Những hình ảnh "sương khói" rất ít gặp nơi thơ Nguyễn Khuyến, mà phần nhiều là những hình ảnh quen thuộc, chất phác, gắn liền với dân quê như: con trâu, con gà, ngõ trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ, vườn cà, cây cải, ao cá, bờ tre. Trong bài thơ Bạn đến chơi nhà, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tình bạn chân thành một cách hóm hỉnh qua việc sử dụng những chất liệu rất đời thường.
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta”.
(Bạn đến chơi nhà)
Không gian trong bài thơ là ao cá, vườn rau, lại có cà, cải, bầu, mướp… những loại cây trồng thường thấy ở thôn quê. Khung cảnh làng quê rất quen thuộc, gần gũi và đậm đà phong vị dân tộc. Cuộc sống của người dân quê thường gắn liền với vườn rau, ao cá với con gà, con vịt. Những chất liệu đời thường ấy đã đi vào bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến thật giản dị biết bao nhưng lại chứng tỏ nhà thơ rất yêu quý và gắn bó với cuộc sống nơi thôn dã.
Việc Nguyễn Khuyến sử dụng những chất liệu đời thường để đưa vào bức tranh thơ là một sự kế thừa và tiếp bước của những nhà thơ thế hệ trước. Nếu Nguyễn Trãi đã từng đưa bè rau muống, lãnh mồng tơi vào thơ ca từ thế kỷ XV thì đến thế kỷ XIX, Nguyễn Khuyến lại đưa vườn rau, ao cá, khóm trúc, bờ tre, giàn mướp, giàn bầu,… vào thơ. Và những chất liệu đời thường mà Nguyễn Khuyến đưa vào thơ với một mật độ rất cao so với bất kỳ tác giả nào khác thời trung đại. Đây chính là điểm nổi bật và tiến bộ của Nguyễn Khuyến so với các nhà thơ thời trước.
Nhìn chung, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến đã góp phần rất lớn trong việc tạo nên thành công cho những bức tranh phong cảnh của nhà thơ. Bút pháp tả thực làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên vô cùng tươi đẹp và gần gũi. Nghệ thuật tạo dựng hình ảnh làm cho thiên nhiên trở nên có hồn và vô cùng sống động. Còn những chất liệu đời thường lại thể hiện sự gắn bó tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, làng cảnh Việt Nam.
PHẦN KẾT LUẬN
Nguyễn Khuyến là một con người và là một nhà thơ ưu tú vào bậc nhất ở thời đại ông. Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Từ những hình ảnh, những chất liệu hết sức đời thường nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Khuyến tất đã trở nên tươi tắn, nhẹ nhàng và mềm mại thể hiện đầy đủ bức tranh làng cảnh Việt Nam. Qua cảm nhận của ông, tất cả đã trở thành phong vị của quê hương. Quan sát bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong thơ văn Nguyễn Khuyến ta nhận thấy ông là người gắn bó rất sâu sắc với làng quê Việt Nam mà nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi ông sinh sống.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến mang đậm đà màu sắc dân tộc và rất mực gần gũi. Có thể nói qua Nguyễn Khuyến đã rất tài năng khi miêu tả phong cảnh thiên nhiên của làng quê và cả những danh lam thắng cảnh của đất nước. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Khuyến là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực với nghệ thuật tạo dựng hình ảnh và những chất liệu đời thường. Tất cả đã được Nguyễn Khuyến vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo để vẽ nên những bức tranh về thiên nhiên tuyệt tác mà không lẫn với bất kỳ tác giả nào khác. Và ẩn đằng sau những bức tranh ấy là một tấm lòng say sưa, chan hòa với thiên nhiên, khát khao yêu đời và yêu con người mà nhất là người nông dân.
Tóm lại, thông qua bức tranh thiên nhiên Nguyễn Khuyến đã bộc lộ tâm trạng của mình trước hiện thực của cuộc sống xã hội lúc giao thời, cũng như bao nhà thơ thời trung đại trước đó họ đều mượn hình ảnh thiên nhiên để gởi gắm tình cảm và bộc lộ tâm sự của mình trước thời cuộc. Đó là âm hưởng chung của thời đại vì khi con người tỏ ra bất lực trước hoàn cảnh xã hội thì con người thường tìm đến với thiên nhiên, vì chỉ có cái bao la rộng lớn của thiên nhiên mới chứa đựng hết cái vô cùng trong tâm sự của con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huệ Chi, Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994.
2. Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam tập 1, Nxb Văn học, 1981.
3. Xuân Diệu, Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971.
4. Hồ Sĩ Hiệp, Nguyễn Khuyến phê bình bình luận văn học, Nxb Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1997.
5. Hà Ngọc Hòa (biên soạn), Nguyễn Khuyến – Nhà thơ của làng quê Việt Nam, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp Hồ Chí Minh, 2006.
6. Nguyễn Phạm Hùng, Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục, 1996.
7. Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
8. Mai Hương (Tuyển chọn và biên soạn), Nguyễn Khuyến - Thơ, lời bình và giai thoại, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, 2000.
9. Trần Ngọc Hưởng, Luận đề về Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh niên, 1999.
10. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam từ thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, 1997.
11. Vũ Khiêu, Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
12. Lê Xuân Lít (Sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu), Hai trăm năm nghiên cứu – bàn luận Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 2005.
13. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, 1971.
14. Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam (tập II), Nxb Giáo dục, 1978.
15. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn), Phê bình, bình luận văn học Nguyễn Khuyến, Nxb Khánh Hòa, 1992.
16. Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Khuyến - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2007.
17. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, 2007.
18. Kiều Văn (Tuyển chọn), Thơ Nguyễn Khuyến thơ ca Việt Nam chọn lọc, Nxb Đồng Nai, 1996.
19. Lê Trí Viễn, Thơ văn Nguyễn Khuyến – Trần Tế Xương, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1973.
20. Tủ sách đại học sư phạm, Lịch sử văn học Việt Nam (tập IV A), Nxb Giáo dục Hà Nội, 1971.