DANH SÁCH BÀI VIẾT

Showing posts with label Lớp Văn Học Việt Nam K17. Show all posts
Showing posts with label Lớp Văn Học Việt Nam K17. Show all posts

Wednesday, April 6, 2011

ĐIỂN TÍCH TRONG CA DAO

1.     Khái niệm điển cố, điển tích:
-         Theo Từ điển Hán- Việt của Đào Duy Anh:
Điển cố là những câu chuyện chép trong sách vở xưa.
Còn tích là dấu chân- dấu vết cũ (trong 16 chữ tích khác nhau)
-         Theo Hán- Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng:
 Điển cố những chuyện xưa chép trong sách vở hay những chuyện chép trong sách vở xưa.
Tích là dấu chân, vết chân- việc đời xưa, dấu vết đời xưa để lại hoặc nghĩa là xưa cũ (trong 40 chữ tích khác nhau).
-         Theo Từ điển tiếng Việt của trung tâm từ điển, Hoàng Phê chủ biên thì viết:
Điển cố: sự việc hay câu chữ trong sách vở đời trước được dẫn trong thơ văn. Thí dụ: Bài văn dùng nhiều điển cố.
Điển tích: câu chuyện trong sách đời trước được dẫn lại một cách cô đúc trong tác phẩm. Thí dụ: Những điển tích trong Truyện Kiều.
Như vậy điển cố, điển tích có nghĩa tương đương nhau, nhưng điển tích nặng về câu chuyện, sự việc kể lại.
-         Theo Từ điển văn học bộ mới:
Điển cố là thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn học cổ trung đại, nhất là văn học cổ trung đại phương Đông, trong phạm vi các nước chịu ảnh hưởng của văn học cổ và trung đại Trung Hoa.
Trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là lối trích dẫn nguyên văn, mà lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và phép lấy chữ.
Dùng điển ý nói “sai khiến” các tích cũ chuyện xưa cho thích dụng vào văn mạch của mình. Các điển gồm các tình tiết đã được ghép trong sử sách, kinh truyện, kể các tình tiết hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong các tác phẩm nổi tiếng được viết ra trong những tác phẩm nổi tiếng thời trước.
Lấy chữ là mượn dùng lại một vài chữ trong các áng văn thơ cổ vào câu văn của mình, gợi cho người đọc phải nhớ đến câu thơ, câu văn ở tác phẩm thời xưa.
Qua việc tìm hiểu các khái niệm về điển cố, điển tích từ các nguồn tài liệu trên, ta có thể hiểu điển tích, điển cố trong sáng tác văn học là các tác giả mượn dùng lại những tích cũ chuyện xưa hay một vài câu chữ trong các áng văn thơ cổ để diễn tả ý mình.
Trong ca dao, các tác giả dân gian cũng có lí do để vận dụng điển tích trong sáng tác. Ca dao sử dụng những công thức truyền thống, những môtip...để đạt tới mục tiêu trình bày nội dung một bày ca dao một cách ngắn gọn, súc tích. Ca dao là những bài thơ dân gian ngắn, cần phải tiết kiệm lời nên công thức, môtip được dùng khá phổ biến. Thực chất, những công thức, mô tip này cũng là một thứ “điển tích”. Như vậy, có thể nói điển tích xuất hiện trong ca dao có vai trò như một công thức, một mô tip. Điển tích trong ca dao là một loại biểu trưng. Điều này tạo nên một nét độc đáo trong sáng tác trữ tình của dân gian.
2.Điển tích trong ca dao
2.1.         Nguồn gốc.
Ca dao Việt Nam sử dụng nhiều điển tích và nguồn gốc của những điển tích đó tựu trung gồm hai dạng phổ biến: mượn từ nước ngoài (chủ yếu là trung Quốc) và lấy từ trong kho tàng văn học dân tộc.
-         Đa số điển tích trong ca dao được mượn từ Trung Quốc:
+ Những điển tích có tên những nhân vật hay sự việc, hiện tượng từ văn học cổ Trung Quốc: ông Tơ bà Nguyệt, Ngưu Lang, Chức Nữ, Nghiêu- Thuấn, Liễu Chương Đài, Bá Nha- Tử Kì, dây tơ hồng, chỉ thắm, trăng già, cầu Ô Thước,...
+ Những điển tích có câu, chữ trong Kinh thi Trung Quốc: “chim phượng- cây ngô đồng”, “ nhất nhật bất kiến như tam thu hề”, “cù lao chín chữ”.
+ Những điển tích có tên địa danh ở Trung Quốc: Hán, Sở, Tần, Tấn, Hồ, Thiên Thai, Đào Nguyên,...
=>Có thể nói các điển tích từ Trung Quốc đã cung cấp cho chúng ta một nguồn ngữ liệu lớn. Chính từ nguồn này mà một số biểu tượng trong ca dao được hình thành.
- Lấy từ văn học cổ Việt Nam: Truyện Kiều của Nguyễn Du, về Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, và một số truyện thơ bình dân như Tống Trân- Cúc Hoa, Lưu Bình - Dương Lễ. Ngoài ra điển tích trong ca dao Việt Nam lấy từ truyện dân gian Việt Nam như sao Hôm, sao Mai, công dã tràng,...
=>Khác với các nhà thơ trung đại Việt Nam trong việc sử dụng điển tích, tác giả ca dao đã mở rộng phạm vi điển tích đến nguồn văn hóa dân tộc.
2.2. Bảng thống kê (phụ lục kèm theo).
2.3. Chủ đề phổ biến trong ca dao có điển tích.
     Theo bảng thống kê bộ phận ca dao có điển tích thì chủ đề về tình yêu nam nữ là phong phú nhất, chủ đề phổ biến thứ hai là đời sống xã hội.
2.3.1. Ca dao có điển tích gắn với chủ đề về tình yêu nam nữ:
 Những câu ca dao có vận dụng điển tích thì chủ đề về tình yêu nam nữ là phong phú nhất. Nó phản ánh được mọi biểu hiện của tình yêu trong tất cả chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ ướm hỏi nhau, giai đoạn gắn bó trao đổi những thề nguyền, những tặng vật cho nhau, giai đoạn hạnh phúc với những niềm ước mơ, những nhớ nhung hoặc sự thất bại đau khổ với những lời than thở, oán trách...
Có những điển tích trong ca dao vốn đã thể hiện nội dung về tình yêu, hôn nhân như Ông tơ- bà Nguyệt, Ba sinh, Ba Khương, Châu Trần,... được sử dụng theo hướng cũ. Một số nhân vật được biết đến với tư cách là nhà quân sự, nhà du thuyết, võ tướng như Lã Vọng, Quan Công, Tào Tháo,... cũng được dùng trong đề tài tình yêu. Lã Vọng được khai thác một nét tính cách là sự kiên trì chờ đợi thời cơ làm chính khách thành kiên trì chờ đợi đối tượng trong tình yêu. Đặc biệt hơn cả là trường hợp Quan Công- Tào Tháo, tình huống Quan Công gặp Tào Tháo ở hẻm Hoa Dung cũng được tác giả dân gian đưa vào ca dao tình yêu.


¯ Gặp gỡ, tỏ tình:
Lần đầu tiên gặp gỡ, dù một thoáng tình cờ nhưng giữa chàng và nàng dường như tơ hồng đã định, và họ muốn kết nghĩa ngàn sau.  Các điển tích như Châu Trần, Tấn Tần, Cầu Ô,... ở đây cho  ta thấy sự gặp gỡ, nối kết giữa các đôi lứa.
“Tình cờ bắt gặp nàng đây,
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần.
Để mà kết nghĩa tương thân,
Mai ngày chỉ Tấn, tơ Tần xe duyên”.

“Bây giờ tình lại gặp tình,
Khác nào Châu Thị, Lưu Bình gặp nhau.
Những mong kết nghĩa ngàn sau,
Đem lời thề ước những câu vững bền”.

“Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Gặp nàng anh muốn kết duyên Châu Trần,
        Nên chăng Tấn hỏi thực Tần,
Kẻ lòng nghi thị trăm phần chưa xong .
        Đôi ta tạc lấy chữ đồng,
Ngày nào Ô Thước bắt xong nhịp cầu.
        Để mà kết nghĩa Trần Châu,
Để mà ăn ở bền lâu một nhà”.
Đa số những điển tích mà các chàng trai mượn để thổ lộ tình cảm là những điển gắn với văn học Trung Quốc. Bên cạnh đó, tác giả dân gian còn sử dụng kết hợp điển tích từ tác phẩm văn học dân tộc và của Trung Quốc. Ta thấy được lời bày tỏ tình cảm của chàng trai qua việc mượn hình hình ảnh Bùi Kiệm và Quan Công :
Anh tới đây cũng muốn kết nghĩa giao ân,
Anh không phải thằng Bùi Kiệm sao chín mười phần bạn nghi?
Quan Công thuở trước có nghì,
Em ở có nghĩa, anh vì nghĩa nhơn”.
Ý nghĩa hình tượng Bùi Kiệm, Quan Công đúng với tính quy phạm của điển tích, Bùi Kiệm biểu trưng cho hạng người bất nghĩa, còn Quan Công biểu trưng cho kiểu người trọng nghĩa. Từ đó, chàng trai khẳng định tình cảm chân thành của mình.
- Truyện Kiều (Nguyễn Du) là tác phẩm rất gần gũi với người Việt Nam. Khi nói về việc trai gái gặp gỡ, tỏ tình, ca dao đã mượn những câu thơ trong truyện:
Bóng chàng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Nghĩa sâu là bể tình dày là sông.
Nên chăng lá thắm chỉ hồng,
Công gia ước bõ công đi công về.
Nên chăng quyết hẳn một bề,
Nhờ ông Nguyệt lão xe tơ xích thằng
Thôi đừng tưởng gió trông trăng
Chả nên cũng nói cho bằng lòng em”
Các tác giả dân gian đã sử dụng thành công và vận dụng linh hoạt các điển của Việt Nam lẫn nước ngoài đem lại cho mảng ca dao tỏ tình này một hiệu quả thẩm mĩ nhất định.
¯ Tương tư, nhớ nhung:
Để nói về sự tương tư, nhớ nhung, ca dao sử dụng nhiều điển tích. Chẳng hạn lấy câu nói trong Kinh thi, mượn hình ảnh non Tần là biểu tượng cho sự xa xôi, cách trở gắn với sự nhớ nhung da diết:
 “Chim bay ải bắc non Tần,
Nửa phần thương mẹ, nửa phần thương anh”.

Mấy lâu vắng mặt Châu Trần,
Tóc không xe mà rối, dạ không chần mà đau”.

Đường trường cách trở nước non,
Mẹ già đầu bạc, thiếp còn xuân xanh.
Giang sơn thiếp gánh một mình,
Có hay chàng tỏ tâm tình thiếp đây.
Trời ơi! Có thấu chăng tình,
Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu!
Ruột tằm bối rối vò tơ,
Gan vàng sao khéo thờ ơ dạ vàng.

Còn chàng trai thì nói một cách trực tiếp:
Bướm bắt bông như Quan Công ngộ Tào tặc
Anh gặp em một lần vắng mặt nhớ thương”.
Tình huống Quan Công ngộ Tào tặc cũng được gắn với tình huống chàng trai gặp và tương tư cô gái trong tình yêu. Nhưng tình huống này được xây dựng dựa trên liên tưởng tương cận, một thứ liên tưởng bên ngoài. Đặc điểm này phản ánh một kiểu tư duy, đó là kiểu tư duy “cảm giác- trực quan”. Như vậy điển tích này đi vào ca dao đã được bình dân hóa, nét nghĩa trưng của ở đây nằm ngoài quan niệm quy phạm phương Đông về điển tích.
¯ Ước mong gắn bó:
Khi đã yêu nhau, đôi trai gái đều ước mong được gắn bó bên nhau. Khao khát mãnh liệt không muốn xa rời đó được thể hiện qua những điển tích lấy từ tên các nhân vật trong truyện cả Trung Quốc lẫn Việt Nam.
 “Em như nút, anh như khuy,
                      Như Thúy Kiều- Kim Trọng biệt ly sao đành”.

“Anh yêu em như bướm say hoa,
Như Lưu Linh say rượu, Bá Nha say cầm”.

 Anh về thưa với nhà thung,
Có người Tề Sở kết cùng duyên anh”.

 Bây giờ ta lại gặp ta,
Sẽ xin Nguyệt lão, trăng già xe dây.
Xe vào như gió, như mây,
Như chim loan phượng đậu cây ngô đồng”.
¯ Thể hiện sự chung thủy:
 Dù cho hoàn cảnh có khó khăn, cách trở thế nào nhưng khi đã yêu và nguyện gắn kết với nhau thì các đôi trai gái luôn khẳng định tình yêu, tình vợ chồng chung thủy. Mượn điển tích nhạc cầu hoàng của Tư Mã Tương Như và nàng Văn Quân, cô gái đã khẳng định tấm lòng chung thủy của mình:
 “ Dầu ai gieo tiếng ngọc,
                                       Dầu ai đọc lời vàng,
Trớ trêu khúc nhạc cầu hoàng,
Lòng em bền chặt, không như nàng Văn Quân”.

Còn “anh” dù “lạc Sở qua Tề” cũng vẫn nhất dạ chung tình:
Đèn nào cao bằng đèn Sở Thượng,
Nghĩa nào trượng bằng nghĩa phu thê,
Anh với em vai sánh má kề,
Dẫu anh lạc Sở qua Tề,
Thì anh cũng gửi thơ về em hay”.

Dù anh lạc Sở qua Tề
Trăm năm cũng lộn về tìm em”.
-         Hoặc:
Sống làm chi kẻ Hán, người Hồ
Một mai thác xuống chôn một mồ mới vui
¯ Lỡ duyên:
Bên cạnh mối lương duyên đẹp đẽ, đôi khi các chàng trai, cô gái cũng gặp những nỗi đau khổ trong tình yêu do bị lỡ duyên mà nguyên nhân có thể là do một trong hai người phụ tình. Chẳng hạn:
“Anh nghe ai nhón gót đưa chân,
Sao không nhớ nghĩa Châu Trần ngày xưa”.
Sông Tương ai gọi là sầu,
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta.
Sông tuy sâu hãy còn có đáy,
Bệnh tương tư không bãi không bờ.
Đầu sông chàng đợi chàng chờ,
Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông”.
Nhưng những trắc trở trong tình yêu thường do cuộc sống nghèo khổ, do chế độ gia trưởng độc đoán và những tệ lậu, tục lệ khắt khe trong xã hội phong kiến gây ra. Tác giả dân gian lấy địa danh Trung Quốc xưa, hình ảnh Ngưu lang- chức Nữ để chỉ sự cách trở hay tan vỡ trong tình yêu.
“Ai làm cho biển cạn khô,
Chiếc thuyền sang không đặng, Hán Hồ xa nhau”.

 Ai làm Ngưu Chức đôi đàng,
Để cho quân tử đa mang nặng tình”.

“Cái duyên Chức Nữ Ngưu Lang,
Cầu Ô đã bắc lại toan đứt cầu”.

“Vì ai cho quạt long nhài,
Cầu Ô long nhịp, cửa gài long then”.

Trong các câu ca dao có điển tích nói về những trắc trở trong tình duyên thì điển tích ông Tơ- bà Nguyệt xuất hiện với tần số cao nhất. Điển tích này thể hiện một quan niệm về hôn nhân, đó là định số. Việc kết hôn không phải muốn là được, không phải từ chối là xong, tất cả đều do một lực lượng siêu nhiên huyền bí sắp đặt. Có phải chăng, niềm tin này thực chất là tiếng vang của chế độ hôn nhân cổ truyền, một chế độ hôn nhân mà đôi nam nữ trong cuộc không có quyền quyết định. Vì thế nhân vật trữ tình trong ca dao ứng xử với ông Tơ- bà Nguyệt theo quy luật: khi tình yêu tốt đẹp thì các chàng trai và cô gái chấp nhận định số, ông Tơ- Bà Nguyệt đã quyết định đúng đắn. Khi tình yêu tan vỡ hoặc không thành ngay từ đầu thì người ta oán trách ông tơ- bà Nguyệt, có nghĩa định số là một cái gì đó sai lầm, bất công của tạo hóa. Ta có thể thấy được thái độ của họ thể hiện trong ca dao.
 “Ngồi buồn trách mẹ trách cha,
Trách ông Nguyệt lão, trách bà xe dây”.

“Kìa khóm trúc, nọ khóm mai,
Ông Tơ, bà Nguyệt xe hoài chẳng thương.
Một lần chờ, hai lần đợi,
Ba lần nhớ, bốn lần thương,
Anh thương em, nhưng phụ mẫu họ hàng chẳng thương”.

“Con dao bé bé sắc thay,
Chuôi sừng bít bạc về tay ai cầm.
Lòng tôi yêu trộm nhớ thầm,
Trách ông Nguyệt lão xe lầm duyên ai.
Duyên tôi còn thắm chưa phai,
Hay là người đã nghe ai dỗ dành”.

“Trách ông Tơ cùng bà Nguyệt,
Xe dây vào lại đảo dây ra”.
Họ không tìm được nguyên nhân và đổ lỗi cho ông Tơ- bà Nguyệt.
Em phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết,
Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành,
Vì đâu hoa nọ lìa cành,
Nợ duyên sao sớm dứt tình cho đang”.

“Vì ông Tơ ham đánh bài xẹp,
bà Nguyệt ham đánh bài linh,
Xe dây không rành mối, nên duyên nợ đôi lứa mình lửng lơ”.

Nhưng có điều đáng chú ý là những bài ca này lại chủ yếu phản ánh tinh thần đấu tranh của nhân dân vì hạnh phúc lứa đôi. Nhiều khi họ có thái độ phản ứng quyết liệt để giải tỏa những ấm ức trong lòng:
                             Rồi đây ta kiện ông Tơ,
Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào”.

“Bắt ông Tơ đánh sơ ít chục,
Mối chỉ sậm sờ ông ngủ gục không xe”.

Bắc thang lên đến tận trời,
Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
Đánh thôi lại trói vào cây,
Hỏi ông Nguyệt lão nào dây tơ hồng?
Nào dây xe bắc xe đông,
Nào dây xe vợ xe chồng người ta?
Ông vụng xe tôi lấy phải vợ già,
Thì tôi đốt cửa đốt nhà ông đi.”

“Bắt ông Tơ mà đánh ba hèo,
Duyên người xe cả, phận em đói nghèo không xe”.

Có người nói rằng “ca dao là những tiếng hát đi từ trái tim lên miệng” của người Việt Nam. Quả thật đúng như vậy, những tiếng hát ấy hát nhiều về tình yêu đôi lứa.Vì vậy những điển tích vay mượn từ Trung Quốc cũng như một số yếu tố của văn học cổ Việt Nam cũng là những biểu tượng của tình yêu. Qua cách dùng những điển tích để nói lên những tâm sự của mình ta thấy được tâm hồn những con người Việt Nam hồn hậu, họ là những chàng trai, cô gái rất cụ thể. Những nhân vật trên đã trở thành biểu tượng của tình yêu, của lòng chung thủy, của cốt cách, phẩm hạnh Việt Nam, nhưng cũng có lúc những đôi lứa phải sống xa cách, gặp bất trắc trong tình yêu.

2.4.2. Ca dao có điển tích gắn với các quan hệ xã hội.
Bên cạnh những lời ca về tình yêu lứa đôi, tác giả dân gian còn vận điển tích trong ca dao để nói đến mối quan hệ khác trong xã hội hoặc để phản ánh lại cuộc sống lao động của người dân. Song, mảng này sử dụng điển không nhiều bằng mảng về tình yêu đôi lứa. Có thể thấy cụ thể như sau:
- Tình bạn cao đẹp của người dân cũng được thể hiện qua hình ảnh Bá Nha:
                             “Rượu kia nào có say người,
Hỡi người say rượu chớ cười rượu say.
Say là say nghĩa say nhơn,
Say thơ Lý Bạch, say đờn Bá Nha”.
- Một số bài sử dụng điển tích để phản ánh mối quan hệ gia đình. Mượn điển tích ba Khương để nói đến quan hệ giữa anh chị em ruột, anh em rể, chị em dâu:
Cóc nhái ếch xào lộn với tương,
Gá vô vòng chồng vợ ba Khương ở đời”.

-  Tình cảnh người phụ nữ lấy phải chồng không ra gì, tác giả dân gian mượn lấy hình ảnh Trương Phi để nói về người chồng lỗ mãng, vũ phu.
“Công em buôn bán tảo tần,
Say sưa anh thảy một lần hết trơn.
Có phước lấy phải chồng hiền,
Vô duyên gặp chồng ác,
Chồng tôi rượu chè, cờ bạc,
Có động đến thì ồ ạt Trương Phi”.
- Mượn hình ảnh “bể Sở sông Ngô “để nói chồng người, ta thấy được lời than thở người phụ nữ lấy phải anh chồng vô tích sự, đồng thời thấy được thái độ phê phán của tác giả dân gian đối với kẻ làm trai vô dụng.
 “Chồng người bể Sở sông Ngô,
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần”.
Hay hình ảnh “Cao Biền dậy non”:
“Con chim nhạn xanh chấp cánh bay chuyền
Chồng em lẩy bẩy như Cao Biền dậy non.
Sớm có chồng, sao em muộn có con?
Hẩm duyên, xấu số em còn đứng không,
Khốn nạn thay em ăn ở với chồng!”.
- Theo quan niệm đạo đức Nho giáo phong kiến, người phụ nữ phải có những đức tính như công, dung, ngôn, hạnh, gái chính chuyên phải có một chồng, những quan niệm ấy ngày nay phần nào vẫn còn giá trị của nó. Chính vì thế, dân gian đã mượn quan niệm chữ trinh trong Truyện Kiều để phê phán những người phụ nữ có tính trăng hoa.
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu vụng dấu thầm,
Họp chợ trên bụng hàng trăm con người”.

Hay đối với những người lang chạ thập thành, chẳng hơn gì chị em bán trôn nuôi miệng, vẫn thường coi ông Tơ bà Nguyệt không ra gì, họ trắng trợn nói những lời vô lương bất thiện:
“Trăm năm trăm tuổi trăm chồng,
   Phải duyên thì lấy, tơ hồng nào xe”.
Dẫu biết rằng Nguyệt lão, tơ hồng là biểu tượng cho định số trong hôn nhân, không ai cầu mong họ tin tưởng, nhưng những lời nói sỗ sàng lại chua ngoa như vậy thì phương hại đến thuần phong mỹ tục.
- Ta còn gặp trong ca dao các nhân vật như Thúc Sinh, Hoạn Thư, Bùi Kiệm,...đại diện cho những tầng lớp người khác nhau trong xã hội.
“Anh mà bắt chước Thúc Sinh,
Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư”.
- Trong đời sống hằng ngày, ta còn thấy một lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu tròn cho ra tròn, vuông cho ra vuông. Vì thế tác giả dân gian mượn hình ảnh các nhân vật Vân Tiên, Nguyệt Nga, Bùi Kiệm trong truyện Lục Vân Tiên để biểu lộ thái độ quyết liệt bằng cách phân biệt rạch ròi giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu.
Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình”.
-  Quan niệm của tư tưởng phong kiến là không chấp nhận việc trai tơ lấy gái đã có chồng, dân gian hết sức lên án việc này.
“Trai tơ lấy gái có chồng,
Tổ tông khiến mạt chớ tơ hồng nào xe”.
* Người bình dân mượn điển tích để phản ánh cuộc sống của chính họ. Chẳng hạn cảnh lao động vất vả:
“Chồng chài, vợ lưới, con câu.
Sông Ngô, bể Sở, biết đâu là nhà”.

Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi,
Nằm trâu thổi sáo vui đời Thuấn Nghiêu”.
Qua điển trên, họ muốn nói lên rằng dù cuộc sống khắp đó đây, mặc dù gian truân vất vả nhưng họ vẫn thể hiện được tinh thần lạc quan của mình.
- Ở nước ta, gần bốn thế kỉ (từ đầu thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX), chiến tranh phong kiến xảy ra liên miên. Những cuộc xung đột giữa các tập đoàn phong kiến trong thời phong kiến suy tàn, nhất là cuộc phân tranh kéo dài hàng trăm năm giữa tập đoàn phong kiến nhà Lê với nhà Mạc, giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, cùng những cuộc “chinh phạt”, trấn áp nông dân khởi nghĩa,..Vì thế có những bài ca dao phê phán chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây nên những cảnh phân ly trong gia đình, ngăn cản tình yêu không được thỏa mãn. Một mặt phán xã hội đương thời, tác giả dân gian cũng nói lên một tiếng nói nhân đạo.
“Lính này có vua, có quan,
Nào ai bắt lính cho chàng phải đi!
Nay trẩy kim thì, mai trẩy kim ngân,
Lấy nhau chưa được ái ân,
Chưa được kim chi Tấn Tần như xưa”.
Hay
“Đường trường cách trở nước non,
Mẹ già đầu bạc, thiếp còn xuân xanh.
Giang sơn thiếp gánh một mình,
Có hay chàng tỏ tâm tình thiếp đây.
Trời ơi! Có thấu chăng tình,
Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu!
Ruột tằm bối rối vò tơ,
Gan vàng sao khéo thờ ơ dạ vàng”.
Qua việc sử dụng những điển tích trong ca dao nói về các quan hệ xã hội cũng như những quan niệm sống của nhân dân, ta thấy được những tiếng nói của người lao động về thân phận của họ trong xã hội cũ, sự khổ cực ê chề trong việc làm, sự nghèo khổ thiếu thốn, những nỗi oan trái uất hận, tình cảm tương thân tương ái trong quan hệ bằng hữu, những mong ước đổi đời, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp. Ở nội dung này, số lượng các bài ca dao có sử dụng điển tích tuy ít nhưng đã góp phần vào tiếng nói chung trong kho tàng ca dao phản ánh hiện thực xã hội.
2.4. Tác dụng của việc sử dụng điển tích trong ca dao.
Điển tích trong ca dao thể hiện tư tưởng và nghệ thuật của sáng tác dân gian. Nó trực tiếp liên hệ tài năng văn nghệ của nhân dân, phản ánh cuộc sống nhiều màu nhiều vẻ của nhân dân, và vì vậy nó đã tạo thành một sắc thái thẩm mĩ riêng của nó. Việc sử dụng điển tích trong ca dao đã tạo được hiệu quả nghệ thuật đáng kể.
-         Tạo cho lời thơ cô đúc, gây thú vị cho người đọc
-         Tránh nói thẳng các điều thô tục, sỗ sàng.
-         Tạo thêm lí lẽ và tăng sức thuyết phục trong ca dao.
-         Làm đẹp hơn, tạo cho ca dao mang nét uyên bác.
3.        Kết luận chung
- Những hình ảnh điển tích được vận dụng trong ca dao đã thể hiện một cách rất riêng của ca dao, nó tạo nên cái hồn, cái vị, cái chất của ca dao. Nhiều điển tích đã trở nên rất gần gũi, quen thuộc với người Việt Nam.
- Việc sử dụng điển tích trong ca dao bên cạnh khai thác đúng với tính quy phạm của điển tích còn có những điển tích đi vào ca dao đã được bình dân hóa, nằm ngoài quan niệm quy phạm phương Đông về điển tích như dựa trên liên tưởng tương cận, một thứ tư duy “cảm giác- trực quan”.
              - Ca dao vừa vận dụng điển tích trong sáng tác vừa thể hiện được những lời nói hằng ngày của người dân. Đây chính là sự kết hợp linh hoạt và nhuần nhuyễn của người bình dân tạo một nét độc đáo cho ca dao, lời ca dao vẫn gần gũi, chân chất. Chẳng hạn: “Yêu nhau lấy quách nhau đi/Ông Tơ bà Nguyệt làm chi thì làm” hoặc  Oánh ông Tơ cái tót/  Ông nhảy thót lên ngọn trâm bầu/Ông xe đâu đó, sao chỗ nghèo không xe”.
- Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng “có một số câu phải do những người trong tầng lớp nho sĩ sáng tác, vì những câu ấy không những dựa vào điển tích rút ở văn học cổ điển, ở lịch sử, mà còn thể hiện những ý thức tư tưởng phong kiến rõ rệt ở những nhận xét về nhân vật cũng như về sự kiện lịch sử”.   Chính vì thế việc tìm hiểu các điển tích trong ca dao, ta cũng phần nào thấy được vai trò của các nho sĩ, trí thức bình dân xưa đối với sáng tác ca dao. Hẳn họ là lực lượng cốt yếu đầu tiên hiểu biết và phổ biến những điển tích này trong các sáng tác dân gian, dần dần chúng trở thành quen thuộc, được sử dụng rộng rãi trong quần chúng nhân dân.

THI PHÁP CÂU ĐỐ


THI PHÁP CÂU ĐỐ
1.      Định nghĩa:
 - “ Câu đố một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật chuyển hóa gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia), được nhân dân dùng trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui, giải trí”.(Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb giáo dục, 2007)
  - Câu đố là câu nói thường mang tính hình thức vần vè ám chỉ một vật đố nhằm đòi hỏi người ta đoán ra nó. Trong câu đố, vật đố là sự vật, hiện tượng nào đó mà người ta muốn nói đến, nhưng không nói thẳng tên nó ra, mà nói ám chỉ (nửa kín nửa hở). Giải đố là dựa vào chỗ hở trong ám chỉ về vật đố mà đoán ra vật đốgọi tên nó ra (Theo PGS. Đỗ Bình Trị)
Ví dụ: Hai năm rõ mười, còn người còn của.
(hai bàn tay)
Đầu cá, mình cá, đuôi cá nhưng không phải cá.                                                                                            
                                                                                                           (con mắm, con khô)
Một cái xương sống
                                                Một đống xương sườn.                          (mái nhà)
Ä Như vậy, câu đố là lời nói có tính nghệ thuật, mô tả sự vật, hiện tượng bằng lối nói ám chỉ, giấu không cho biết sự vật, hiện tượng để người nghe tự đoán ra.
Ä Cốt lõi của thi pháp câu đố nằm ở cách nói ám chỉ nửa kín nửa hở của nó.
- Câu đố được đặt ra tất nhiên là để…đố. Nhưng đố nhằm mục đích gì?
+  Tránh cách nói trực tiếp, gọi sự vật bằng tên tục của nó (do kiêng kị bản chất thiêng của sự vật,…)
+ Thử tài
+ Giải trí
+ Chức năng giáo dục của câu đố.
           2. Những đặc điểm thi pháp của câu đố dân gian.
              2. 1. Đặc trưng bản chất của câu đố- Ẩn dụ câu đố (không giới hạn) và ẩn dụ ca dao, thơ (có giới hạn).
                  2.1.1 Trong câu đố, vật đố thường được mô tả thành một “con gì” đó hoặc một “cái gì” đó kỳ dị, khác với nó. Ví dụ:
- Loài cóc nhái được mô tả thành một con gì đó:
Đi ngồi, đứng ngồi, nằm ngồi.       (loài cóc nhái)
- Cái tay áo được mô tả thành cái gì đó:
                                                   Không có nhà mà lại có cửa                              
                                                                               (tay áo)
Nếu biểu thị vật đố bằng A thì, trong câu đố, vật đố A được giấu tên và được so sánh với B- vật thay thế cho nó. Như vậy câu đố thực chất là một ẩn dụ, tức là so sánh ngầm, một so sánh trong đó chỉ có thành phần B.
            Ví dụ:         - Câu đố về cây dầu lai:         
Ông khoe ông sống dài lâu,
Rày ai thấy mặt ông đâu trong nhà
            Câu đố này sử dụng lối nói lái, những vẫn tạo ra một ẩn dụ: ở đây, vật thay thế (B) có vẻ là một cái gì đó như là một ông già (ông sống dài lâu), nhưng không thấy ông trong nhà.
                        - Câu đố về chữ “ tuổi”
Phần đầu là kẻ ăn chay
Phần sau là loại trái cây ngon lành.
            Câu đố này sử dụng lối “chiết tự” tách chữ “tuổi” ra thành hai từ thì có chữ
“tu- ổi”. Nhưng cả câu đố vẫn là một ẩn dụ: ở đây, vật thay thế (B) có vẻ là một cái gì đó nửa người (ăn chay), nửa cây (trái cây ngon lành). Câu đố dù sử dụng phương pháp mô tả hay chơi chữ cũng là những ẩn dụ.
            2.1.2 Giữa ẩn dụ câu đố và ẩn dụ ca dao, thơ có điểm giống nhau và khác nhau.
µ Giống nhau:
Đều sử dụng phương thức chuyển nghĩa từ nghĩa đen của một từ (hoặc một thành ngữ, một hình ảnh) sang nghĩa bóng theo cùng một phương cách là sự so sánh ngầm.


Ví dụ:
Cây khô mà nở được hoa,
Đậu được một quả khi già khi non
Đôi bên quân tử giao ngôn,
Suy đi tính lại vẫn còn hồ nghi.
                      (cái cân)
Ví dụ: Nghe câu ca dao:
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
có lẽ ai cũng biết “thuyền” là chàng trai, “bến” là cô gái. 
                        µ Khác nhau:
- Mục đích của ẩn dụ câu đố là để…đánh đố, cho nên nó phải lắt léo, khó hiểu. Ngược lại, ẩn dụ văn học dễ hiểu, vì mục đích của nó là “mô tả hiện tượng một cách chính xác và rõ ràng về mặt nghệ thuật”.
- Ẩn dụ câu đố chỉ đem lại cho từ (hoặc thành ngữ, hình ảnh) một nghĩa mới, và nghĩa này không bắt buộc phải hàm chứa một ý nghĩa gì khác.
- Ẩn dụ ca dao, thơ bao giờ cũng mang ý, chứa những hàm ý sâu sắc, gợi cảm, bao hàm cả thái độ, suy ngẫm của tác giả đối với đối tượng biểu hiện.
         Ví dụ: Ẩn dụ “ bà hai đầu” ở câu đố:
Trong nhà có bà hai đầu
chỉ có nghĩa là cái võng, ngoài ra không có nghĩa gì khác. Do đó, việc “giải mã” ẩn dụ câu đố thường giới hạn ở chỗ suy từ B ra A, từ hình ảnh ẩn dụ ra vật đố, từ hai đầu ra cái võng. Nhưng tiếp nhận ẩn dụ ca dao, thơ không đơn giản chỉ là sự “dịch nghĩa” B ra A, “thuyền” là chàng trai, “bến” là cô gái. Chỗ mà ẩn dụ câu đố, ta có thể dừng lại, thì với ẩn dụ văn học, đó chỉ là chỗ bắt đầu. Vậy nên người ta còn có thể nói tiếp, chẳng hạn, về ẩn dụ “thuyền- bến”:
 Khi người con gái hát: “ Thuyền về có nhớ bến chăng…” cô ta không chỉ diễn tả nỗi nhớ mong, niềm hy vọng, lòng son sắt và thoáng lo âu của những cô đợi chờ, mà cả cảm nghĩ về thân phận đáng thương của mọi cô gái của một thời đại.
            Người trai giống như con thuyền nay đây mai đó, đâu có thể là bến là bờ của dòng- sông-cuộc- đời. Trong ca dao xưa, chỉ có “anh đi” mà thôi! Còn người con gái như bến nước, không chuyển dời, chỉ biết chờ đợi…
Sự khác biệt tiểu biểu nhất giữa ẩn dụ câu đốẩn dụ văn họcẩn dụ câu đố thường là sự so sánh cái cụ thể với cái cụ thể (có rất ít trường hợp so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng) còn ẩn dụ ca dao, thơ là đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Ta có thể lập bảng so sánh sau:
Giống nhau
Đều là phương thức chuyển nghĩa
(từ nghĩa này sang nghĩa khác, từ nghĩa đen sang nghĩa bóng)


Khác nhau
Ẩn dụ câu đố
Ẩn dụ ca dao, thơ
- Liên tưởng tương cận (bên ngoài)
- Không bắt buộc hàm chứa một ý nghĩa khác.
- So sánh cái cụ thể với cái cụ thể.
(ít so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng)
- Liên tưởng tương đồng (bên trong)
- Luôn hàm chứa những ý nghĩa sâu    sắc khác.
- So sánh cái trừu tượng với cái cụ thể.

µ Tuy nhiên ẩn dụ câu đốẩn dụ ca dao, thơ có khả năng tiếp cận với nhau.
Có hai trường hợp tiếp cận:
            Một, đó là trường hợp ẩn dụ câu đố có ngụ ý. Tức câu đố ngoài mục đích đánh đố, người đố muốn gửi vào ẩn dụ câu đố một ngụ ý nào đó (gần với ca dao ngụ ngôn). Ví dụ, câu đố về cái bắp ngô
Còn duyên đánh phấn phơi màu
Hết duyên má hóp răng vàng phơi khô
(Vừa nói về trái ngô, vừa gợi liên tưởng về thân phận người phụ nữ).
Câu đố về cái nón:
          Ta thấy sự liên tưởng ấy, có sự hỗ trợ của những câu ca dao có cấu trúc
“ Còn duyên/ Hết duyên” như:
                                                Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa
*
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh
*

Còn duyên kén những trai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ là chồng
Hai, đó là trường hợp những ẩn dụ câu đố dễ hiểu, chính xác và gợi cảm.
Ví dụ:
Mười người thợ lo đỡ mọi bề
                                                     ( Câu đố về hai bàn tay)
Nắng ba năm ta không bỏ bạn
Mưa một ngày bạn lại bỏ ta
                                                 ( Câu đố về cái bóng)
                                              Không có tui đui cả nhà
                                 (Ngọn đèn)
Có thể nói, ẩn dụ câu đố dễ hiểu, chính xác và gợi cảm đến mức nào đó thì cũng sánh được với ẩn dụ ca dao, thơ. Ngược lại, ẩn dụ ca dao, thơ khó hiểu đến mức nào đó cũng dễ biến thành câu đố.
2.2. Thế giới vật đố và thế giới liên tưởng từ vật đố.
            Trong câu đố có hai đối tượng được đề cặp: vật đốhình ảnh ẩn dụ của nó. Tập hợp những vật đố hợp thành thế giới vật đố. Tập hợp những hình ảnh ẩn dụ của vật đố tạo nên thế giới liên tưởng từ vật đố.
            2.2.1. Thế giới vật đố
            Vật đố có thể chia thành ba nhóm:
-         Những đồ dùng lao động và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của nhân dân
+ Những đồ dùng lao động nông nghiệp: cày, bừa, cuốc, rựa, liềm, hái, gầu tát  nước, guồng nước, hòn đá, trục lúa…
Ví dụ:
Có răng mà chẳng có mồm,
Nhai cỏ nhồm nhồm cơm chẳng chịu ăn
( Cái liềm)
Đời em uốn gối cong lưng,
Lưỡi em giọng nói ra chừng thép gang.
Mỗi khi em bước ra đàng,
                             Yêu em anh bế, anh mang, anh bồng.  (Cái gầu sòng)
+ Những đồ dùng thủ công: khung cửi, xa (xa cán bong, xa kéo sợi), thoi, bào, bễ thổi lửa, vạch, kéo, kim,…
Ví dụ:
Người thì một thước,
Đuôi dài thước năm.
                                                Khi đi thì nằm
                                                Khi ngồi thì đứng
                                               Trên cầu dưới cầu,
                                                Con trâu đi lọt. 
( cái thoi)
+  Những đồ dùng sinh hoạt thông thường: cối xay lúa, cối giã gạo, nồi, bát đĩa, chum gáo, dao thớt, đá mài, chổi, chiếu, trầu, bình vôi, ấm chén, áo, yếm, lược, quạt, nón, tơi…
Ví dụ:
Hai đầu một mặt bốn chân
Có đàn em nhỏ quay quần xung quanh.
(bàn và ghế)
Vừa bằng cái thúng,
Lăn đúng giữa nhà,
Con cháu ông bà,
Toàn gia quay lại.
(mâm cơm)
- Những công việc và thao tác lao động, sinh hoạt
            + Lao động nông nghiệp: nhổ mạ, cấy lúa, tát nước, trục lúa,…; kéo vó, bỏ chuôm, móc cua, đi nhủi, chăn vịt….
            + Lao động thủ công: ươm tơ, dệt vải, xẻ gỗ, rèn sắt,…
            + Sinh hoạt: xay lúa, giã gạo, ăn cơm, hút thuốc, nhai trầu, xâu kim,…
-         Những sự vật và hiện tượng quen thuộc khác
+  Gia súc, gia cầm và những con vật thường thấy: trâu , bò, ngựa, chó, mèo, gà, cá, cua, tôm, ốc, ếch, đỉa, tằm, nhộng, nhện, ruồi, muối, chuột, rận, chấy,…
+ Những cây, quả thường dùng: lúa, ngô, khoai, rau muống, chuối (hoa), mía, cao, dừa( quả), mít, bưởi, xoan, tre, quả na, quả ổi, quả chanh, quả cà, quả ớt…
+ Những bộ phận của nhà cửa: mái nhà, xà nhà, bậc cửa, cột nhà, máng nước,…
+ Quà bánh và những đồ dùng vui chơi: bánh đa, bánh dì, bánh rán, bánh chưng, bánh trôi,...; cái diều, đèn kéo quân, bộ tam cúc, bài tổ tôm,…
+ Chữ nghĩa và đồ dùng học tập: quyển vở, trang sách, cái bút (bút long, bút chì) và một số chữ Hán…
+ Một số vật hiện tượng tự nhiên: mặt trời, mặt trăng, sao, hạt mưa, nước, biển, núi,…
+ Con người và một số bộ phận của cơ thể người: cái mặt, đôi mắt, mũi, miệng, hàm răng, đôi bàn tay, ống chân, bàn chân,….
Ví dụ:
                            -Mồm bò mà không phải mồm bò, mà lại mồm bò
                   -Ông già đội nón đỏ, thằng nhỏ đội nón xanh
-Đầu đội thúng tro, đít đo cây cột
                                           -Công tử bột đi tìm nước ngọt
                                           - Sóng ba đào công tử nổi lên.
                                            -Mười người thợ lo đỡ mọi bề
Nhìn chung, thế giới vật đố trong câu đố dân gian của người Việt phản ánh khá chân thực môi trường sinh thái và sinh hoạt của người nông dân ở nông thôn xưa kia. Ở đây tất cả những sự vật hiện tượng, hoạt động quen thuộc mà người nông dân thường thấy, thường dùng, thường làm trong cuộc sống hằng ngày, đời này qua đời khác. Trong trò chơi câu đố, có một luật chơi được tôn trọng nghiêm ngặt, đó là: người ta không đố về những sự vật, hiệng tượng xa lạ với người trong cuộc. Do đó, câu đố không thể là phương tiện truyền dạy tri thức về sự vật, “có tác dụng bồi dưỡng tri thức về thế giới khách quan cho nhân dân”. Thật ra, câu đố không cho người ta biết thêm  về một sự vật gì mới và cũng không cho người ta biết thêm điều gì mới về các sự vật quen thuộc. Ví dụ câu đố về cái cày: Khi đi lè lưỡi, khi về cũng lè lưỡi ở câu đố này không đem lại cho trẻ em nông thôn một kiến thức gì mới về cái cày. Nhưng vấn đề là ở chỗ không phải tất cả những người đã biết cái cày đều thấy nó như một con vật “ khi đi thè lưởi khi về cũng thè lưỡi. Chính “ phát hiện” ấy đem lại cho người ta niềm thích thú. Có thể nói toàn bộ chức năng giải trí và giáo dục của câu đố đều dựa trên sự khai thác cái cách nhìn mới lạ, bất ngờ, độc đáo đối với các sự vật, hiện tượng quen thuộc.


2.2.2 Thế giới những vật thay thế cho vật đố
Thế giới những vật thay thế cho vật đố là thế giới được “sáng tác” ra từ nguyên mẫu vật đố chủ yếu dựa vào liên tưởng, tưởng tượng.
- Tính chất kì dị của những hình ảnh ẩn dụ câu đố.
Phần lớn những sự vật, hiện tượng vốn hết sức quen thuộc với người ta, khi trở thành vật đố, đều được mô tả thành những sự vật, hiện tượng kì dị. Ví dụ:
+ Cái gối nằm được hình dung thành một vật:
                                                              Đánh ngã đàn ông
Đánh ngã đàn bà
Đánh ngã kẻ chợ
            Đánh ngã vợ vua
            + Cái ống chân được mô tả thành một con vật:
Lưng đi trước, bụng đi sau
Cái mắt cái đầu cách nhau một thước
            “ Kỳ dị hóa” những sự vật, hiện tượng quen thuộc của thế giới chung quanh là một xu hướng nổi bật trong cách cấu tạo câu đố dân gian.
-         Tính chất thân quen của những hình ảnh bộ phận trong ẩn dụ câu đố
            Ần dụ câu đố có một đặc điểm chung là: nhìn cả tổng thể thì ra một vật kì dị, thậm chí quái đản; nhưng từng bộ phận hợp thành của nó thì lại là những hình ảnh về những sự vật hiện tượng thân quen với những người lao động.
            Ví dụ : Ẩn dụ về sàng gạo nhìn tổng thể thì quả là một vật rắc rối:
                                                            Một trăm tấm ván
Một vạn thằng dân
Thằng nào cởi trần
Thằng ấy chui lọt
Nhìn chung, trí tưởng tượng của những người sáng tác câu đố dù phóng túng đến đâu cũng không thể không dựa vào nguồn vật liệu sẵn có của thực tiễn lao động và sinh hoạt cung cấp cho họ.
-Tính chất sống động, có hồn của những hình ảnh ẩn dụ câu đố
Câu đố thường mô tả sự vật trong trạng thái hoạt động hoặc biến đổi của nó.
Ví dụ:
    + Bát đĩa được mô tả ở trạng thái đang đứng rửa, sau bữa ăn, để gác lên chạn:
Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm
    + Cái kéo được mô tả ở trạng thái lăm lăm “hành chức”:
                                      Vừa bằng lá tre xun xoe đánh vật
Ngay cả những câu đố có ẩn dụ thuộc dạng tranh “tĩnh vật” cũng tìm ẩn một nét “động”. Ví dụ:
Vừa bằng cánh của nằm ngửa giữa trời
( câu đố về tàu lá chuối)
Vừa bằng con bò nằm co giữa ruộng
                                                    (  câu đố về cái mả)      
Điều quan trọng là tất cả các sự vật được mô tả đều có hồn, có sinh khí. Để tạo nên những hình ảnh sống động, có hồn như thế, người sáng tạo câu đố cần có cái nhìn có tình đối với tạo vật. Những hình ảnh ẩn dụ câu đố luôn xuyên thấm tình yêu của người lao động đối với tạo vật, yêu công việc làm ăn, yêu những vật đã cùng họ dãi nắng dầm sương…
2.2.3 Thế giới vật đố có tính “tục” giảng “ thanh”
Bên cạnh chất kì dị, ẩn dụ câu đố còn có tính chất thường được gọi là “đố thô, giảng thanh”. Tính chất này được chình câu đố xác nhận một cách hồn nhiên:
Đố thô giảng thanh
Miệng chào anh
Hai tay nâng đít.
“Đố thô, giảng thanh” có nghĩa là vật đố  thì “ thanh” tuy vậy vật thay thế nó thì “ thô”. Khái niệm “thô” ở đây được hiểu là: nói đến sinh thực khí và hoạt động tính giao hoặc nói đến cơ quan bài tiết và hoạt động bài tiết. Nhiều hình ảnh ẩn dụ câu đố là sản phẩm của sự liên tưởng từ vật đố đến những cái “thô”, cái “ tục”. Ví dụ
Một cột ba chia
Chọc vô cái lỗ
 Thọc lia thọc lịa
  Máu trào đỏ loét
  Le lưỡi liếm liền
                                                                                              (ống ngoáy trầu)
Quả thật khi trí tưởng tượng đã hướng theo ngả này thì hầu như sự vật hiện tượng nào cũng có thể được hình dung, mô tả thành “cái ấy” và “ chuyện ấy”.
Ví dụ:
Thương em anh dắt sau hè
Hai tay anh đè cái đít lắc lia
                                                                (mài dao, kéo)
Trên cũng da dưới cũng da
Đúc vô thì ấm, rút ra lạnh lùng
                                                                   (chân và giày)
Hiện tượng này là hiện tượng đã tồn tại và một số người vẫn thích chơi trò “ đố thô, giảng thanh”. Nhưng không thể coi đó là một xu hướng liên tưởng lành mạnh, nhất là đối với trẻ em.
      2.3. Kết cấu của ẩn dụ câu đố
Ẩn dụ câu đố có hai kiểu kết cấu: kết cấu đơn và kết cấu kép.
 2.3.1. Kết cấu đơn.
            Ẩn dụ có kết cấu đơn là ẩn dụ chỉ gồm một hình ảnh đơn nhất, tức là hình ảnh chỉ của một sự vật. Hình ảnh được tạo nên có thể có một hay nhiều
“ đặc điểm” nhưng bao giờ cũng chỉ tương ứng với một sự vật. Ví dụ:
- Hình ảnh đơn nhất có một đặc điểm
 Trong nhà có bà ăn cơm trước
                                                         ( Câu đố về đôi đũa cả)
Trong nhà có bà hay la hét
                                                    (Câu đố về cái chổi)
-         Hình ảnh đơn nhất có nhiều “đặc điểm”:
                     Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng ( hai “đặc điểm”)
                                           (Câu đố về con ruồi)
  Vừa bằng cái kim, chìm xuống ao, đào chẳng thấy, lấy chẳng được
 (bốn “đặc điểm)
 (Câu đố về cái râu tôm)



Có thể mô hình hóa câu đố ẩn dụ có kết câu đơn như sau:
                      a1-----------------------------------------------b1
       A             a2-----------------------------------------------b2              B
            a3-----------------------------------------------b3

Vật đố A và các đặc điểm a1, a2, a3…được mô tả thành ẩn dụ B với các “ đặc điểm” tương ứng b1, b2, b3…Nhìn chung những câu đố có kết cấu đơn có phần dễ giải hơn những câu đố có kết cấu kép. Là vì những ẩn dụ này chỉ tương ứng với một sự vật, cho nên việc khoanh vùng tìm kiếm vật đố không bị phân tán theo nhiều hướng cùng một lúc. Trong số những ẩn dụ có kết cấu đơn thì ẩn dụ càng có nhiều “đặc điểm” càng có vẻ rắc rối, nhưng lại càng có nhiều căn cứ để người giải đố suy lý và liên tưởng.
2.3.2 Kết cấu kép:
- Ẩn dụ câu đố có kết cấu kép rắc rối, kỳ dị hơn so với ẩn dụ có kết  cấu đơn và, đặc biệt, thường có chút ít tính truyện.
Khi vật đố là một sự vật gồm nhiều bộ phận (những bộ phận này đều có thể quan sát bằng mắt thường và quen thuộc với mọi người) hoặc một hoạt động gồm nhiều thao tác (những thao tác này cũng quen thuộc với mọi người- ví dụ: ăn trầu, hút thuốc lào…) thì ẩn dụ của nó thường có kết cấu kép.
Ví dụ:
           Bốn ông đập đất (= bốn chân trâu giẫm lên đất cày)
            Một ông phất cờ (=cái đuôi trâu ve vẩy đuổi ruồi)
            Một ông vơ cỏ (= mõm trâu “ tranh thủ” vơ ít cỏ ven bờ)
            Một ông bỏ phân (= đít trâu cũng làm cái việc của nó!)

Trong phức hợp ẩn dụ, quan hệ giữa các ẩn dụ “nhỏ” thường khá chặt nhằm tạo ra một hình ảnh chung ít nhiều có nghĩa lý hoặc, tài tình hơn, một “mẫu chuyện” ly kỳ. Ví dụ: Trong câu đố về con trâu (đang đi cày) những ẩn dụ nhỏ hợp thành một cấu trúc tương đối chặt chẽ (bốn ông + một ông + một ông + một ông) tạo nên cảnh tượng “bảy ông vừa đập đất, vừa phất cờ, vừa vơ cỏ, vừa bỏ phân, cứ như một lực điền đang hội làm mùa vậy!  Mô hình hóa ẩn dụ có kết cấu kép:


                  được mô tả thành
A1------------------------------------------------B1          
    A2  A  ------------------------------------------------ B     B2
           A3------------------------------------------------- B3
   
Vật đố A với các                                                 phức hợp ẩn dụ B
bộ phận hợp thành                                              với các ẩn dụ “nhỏ”
A1, A2, A3                                                          B1, B2, B3(tương ứng
                                                                               với A1, A2,A3)                                                        
Ta phân tích một câu đố có kết cấu kép để nhận rõ lại một lần nữa những nét đặc thù về kết cấu của ẩn dụ câu đố.
                                                           Ba ông lỏng khỏng
                                                Cõng bà đế vương
Sung bắn tứ phương
                                                Có bay rào rạt
                             (Câu đố về rang ngô)
Ta thấy vật đố A – hiện tượng rang ngô- gồm bốn bộ phận hợp thành: 1/ ba ông đầu rau (A1) ; 2/ cái nồi rang ( A2) ; 3/ ngô nổ ( A3) ; 4/ ngô nở ( A4). Bốn bộ phận hợp thánh của vật đố A được mô tả thành bốn ẩn dụ “ nhỏ” tương ứng : 1/ ba ông lỏng khỏng (B1) ; 2/ cõng bà đế vương ( B2) ; 3/ sung bắn tứ phương (B3); 4/ cò bay rào rạt
( B4). Như vậy ta có mô hình:
Oval:
A1--------------------------------------------------------------B1
A2--------------------------------------------------------------B2
A3-------------------------------------------------------------- B3
A4---------------------------------------------------------------B4

 Ta có thể nhận xét là các so sánh  A1 – B1
                                                            A2 – B2
                                                            A3 – B3
                                                            A4 – B4
Dựa trên những nét giống nhau hết sức mong manh. Như ta đã biết, đấy chính là đặc trưng tiêu biểu của ẩn dụ câu đố. Quả thật, chỉ có trong sáng tác câu đố  người ta mới so sánh một cách phóng túng:
Ba ông đầu rau                           với              Ba ông lỏng khỏng
trên đặt cái nồi rang                                       cõng bà đế vương
Và:
            tiếng ngô nổ                               với               súng bắn tứ phương
           những hạt ngôn nổ bung ra                            cò bay rào rạt    
  Trong khâu giảng đố, người ta thường chỉ giải thích, chứng minh nét giống nhau giữa b1 với a1, b2 với a2…( câu đố có kết cấu đơn) hoặc giữa B1 với A1, B2 với A2…
( câu đố có kết cấu kép), mà không đả động đến tính chất thích đáng và ý nghĩa của ẩn dụ ( B) với vật đố ( A).
2.4. Cách mô tả của câu đố -  Ngôn ngữ của câu đố
2.4.1 Cách mô tả của câu đố:
Xây dựng câu đố bắt đầu từ sự quan sát và lựa chọn những “đặc điểm” của vật đố.
Có 5 đặc điểm cơ bản:         -Hình thể      
-Về cấu tạo
-Tính năng, tác dụng
-Hoạt động thao tác
-Nguồn gốc, xuất xứ
            Mấu chốt của việc xây dựng câu đố là sự mô tả những “đặc điểm” của vật đố. Ở đây mô tả đi đôi với so sánh nhằm tạo ra những ẩn dụ. Trong câu đố, mô tả cũng thường kết hợp với nhân hóa. Ở đây nhân hóa không đơn thuần như một thủ pháp mô tả mà nó còn là vấn đề của thế giới quan. Do đó, nhân hóa được sử dụng rất phổ biến trong câu đố.
  Ví dụ : 
Sừng sững mà đứng giữa nhà,
Ai vô không hỏi, ai ra không chào.
(cây cột nhà)
Chị em con bác con dì,
Chị thì đẻ trứng, em thì đẻ con.
( ốc nhồi và ốc hột)
            2.4.2. Ngôn ngữ câu đố
            Ngôn ngữ câu đố có những đặc điểm rất nổi bật – đó là tính chất cô đúc và tính gợi hình, gợi cảm. Câu đố phải gọn ghẽ, chặt chẽ như đề toán, cho nên ngôn từ phải chính xác và không gian ngôn ngữ câu đố phải hết sức tiết kiệm. Không gian ngôn ngữ câu đố phải thông thoáng, sống động và nổi sắc nổi hình. Ngoài những thủ thuật chơi chữ đủ các kiểu, người sáng tác câu đố còn tập trung vào giải pháp khai thác giá trị gợi tả của từ ngữ tiếng Việt, nhất là động từ và tính từ tình thái. Do đó, mật độ của những từ loại này trong không gian ngôn ngữ câu đố rất cao, cao hơn cả tục ngữ và ca dao.
Ví dụ:  
Mẹ gai góc, con trọc đầu”
(cây bưởi)
Chân đen mình trắng đứng nắng giữa đồng”
                                                                                                                            ( con cò)
            Nghệ thuật câu đố có được sự thành công hay không là nhờ một phần vào sức gợi tả của ngôn ngữ câu đố- một thứ ngôn ngữ vừa lấp lửng vừa chính xác, vừa hồn nhiên vừa tinh quái, vừa sát sạt vừa bay bổng…Tuy nhiên, câu đố là thể loại văn học dân gian, nó là những sáng tác của lớp người bình dân nên đôi khi ngôn ngữ câu đố có một số từ rất thô kệt. Ví dụ:
“Có mái mà không có trống
đái mà không có ỉa
(Mái nhà)
Tóm lại, ngôn ngữ câu đố mang những đặc điểm tiêu biểu của ngôn ngữ dân gian.
            3. Thể thơ trong câu đố:
Trong câu đố, thể thơ lục bát dùng rất phổ biến và được thể hiện rất đa dạng:
“Sừng sững mà đứng giữa trời
Trời xô không đổ, trời mời không đi”
                                                                      (Núi)
“Thưở bé em có hai sừng
Đến tuổi nửa chừng mặt đẹp như hoa
Ngoài hai mươi tuổi đã già
Quá hai mươi tuổi mọc ra hai sừng”
                                                                            (Mặt trăng)
- Thể vãn là thể thơ ngắn, mỗi câu năm chữ hoặc dưới năm chữ. Câu đó có tính chất giải đố nên đại bộ phận câu đố đều được viết theo những thể thơ ngắn, tương đối đơn giản về tiết tấu, nhịp điệu cách gieo vần rất linh hoạt.


“Trên trời bảy ngọn đèn
Hình móc câu xếp nên
Ban đêm người đi lạc
Nhìn biết phương hướng liền”
                                                                     (Sao)
“Ăn nằm ngửa
Ngủ nằm nghiêng
Uống rượu thì kiêng
Chỉ khuyên ăn thịt
Ăn rồi lại quỵt
Rửa mặt đi nằm
Ai hỏi thì câm
Ai mời thì tới”
                                                                                 (Cái thớt)
- Câu đố thường mang tính cô đúc, cân đối nhịp nhàng về cách gieo vần
  Đi phe phẩy, về nhà giãy ra mà chết.         (Cái áo dài)
        Một nhà làm quan, cả nhà đi tàn.                (Khóm khoai)
  4. Kết luận chung.
Sau truyện cười, câu đố là thể đem lại nhiều tiếng cười trong kho tàng văn học dân gian. Hầu như câu đố nào đọc lên, ta cũng thấy ngộ nghĩnh, hóm hỉnh tươi mát, đôi khi tục tĩu nữa, song hiện thực sự vật, sự việc lại không ngộ nghĩnh tục tĩu tí nào. Giải được hay không giải được, cả người đố và người đoán đều buồn cười. Do đó, câu đố ngoài việc thử tài nhau, nó còn là phương tiện để thư giãn sau những giờ lao động và để mua vui trong lúc nghỉ ngơi.
            Câu đố phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới quan theo lối nói chệch đi, lối nói một đàng hiểu một nẻo,“nửa kín nửa hở” bằng hình thức liên tưởng, tưởng tượng. Ngôn ngữ sinh động, giàu có cùng với các thủ thuật so sánh, ẩn dụ, tu từ, lộng ngữ… cũng đã góp phần tạo nên chất nghệ thuật trong câu đố. Với những đặc trưng của thi pháp, câu đố đã tồn tại cùng với nhân dân, không ngừng được nhân dân sáng tạo thêm làm cho lưu loát hơn. Sự ra đời và phát triển của câu đố đã làm cho nền văn hóa dân gian Việt Nam thêm phong phú giàu màu sắc.